Kinh pháp cú là gì? Kinh Pháp cú có tác dụng gì?

Bài viết này của thietkenhathoho.com sẽ giới thiệu đến mọi người Kinh Pháp cú – bộ kinh này được xem là những lời dạy, câu kệ hay nhất mà Đức Phật để lại cho chúng sinh nhiều đời sau. Đây chỉ là những câu nói lời dạy ngắn gọn nhưng lại chứa đầy tinh hoa của những cuộc đời. 

Kinh pháp cú là gì?

Kinh pháp cú là gì?

Kinh Pháp Cú là những lời vàng mà Đức Phật dạy bảo chúng sinh sống theo chân lý

Tùy theo bản dịch của các nhà thiền sư hay nhà sử học khác nhau, Kinh Pháp Cú hoặc Kinh Lời Vàng hoặc Lời Phật Dạy là một trong số 15 quyển kinh bộ kinh trong Kinh Tạng Pali. Có thể nói quyển kinh này là quyển kinh Phật được lưu truyền phổ biến và nổi tiếng nhất trên thế giới, được các thiền sư từ các đất nước khác nhau dịch về tiếng mẹ đẻ của họ. Theo đó, ta có thể dịch nôm na ý nghĩa của tựa đề bộ kinh này là: Pháp có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời của đức Phật, Cú có nghĩa là lời nói hay câu câu kệ. Vì thế Pháp Cú có nghĩa là lời nói của Đức Phật. 

Nguồn gốc của kinh pháp cú

Nguồn gốc của kinh pháp cú

 

Kinh Pháp Cú là những câu nói do chính Đức Phật nói ra trong những năm còn tại thế của ngài

Kinh Pháp Cú là một quyển kinh của nhà Phật đã được lưu truyền từ rất lâu, cách đây khoảng 2500 năm. Có thể xem đây là bộ kinh cổ xưa nhất tập hợp những lời dạy ngắn gọn nhưng chứa đầy tinh hoa của Đức Phật Thích Ca trong ba trăm trường hợp giáo hóa khác nhau. Những câu này chính là những lời nói do chính Đức Phật khi còn tại thế dạy bảo các Phật tử hay chúng sinh trong suốt gần nửa thế kỷ thuyết pháp của Ngài. Trong những năm tháng thuyết pháp ấy, Đức Phật dạy bảo chúng sinh qua lời nói và được truyền miệng đi chứ Ngài không viết sách. 

Cho đến tận ba tháng sau khi Đức Phật nhập vào cõi Niết Bàn thì các vị đại đệ tử của Ngài mới tập hợp lại. Họ bắt đầu cố gắng tổng hợp và ghi chép lại tất cả những giáo pháp mà Đức Phật từng thuyết giáo để có tư liệu cho con cháu mai sau. Chúng sinh sau này đều có thể được nghe hay đọc lại tư tưởng của Ngài. Tất cả các lời nói của Đức Phật được các vị đại đệ tử sắp xếp thành 423 bài “kệ”, chia ra làm 26 “phẩm” hoàn toàn giống với bộ kinh hiện nay đang lưu truyền muôn đời. Có thể thấy, tư tưởng của Ngài vẫn luôn còn nguyên giá trị và thấm đẫm chân lý cuộc đời.

Ý nghĩa của kinh pháp cú

Ý nghĩa của kinh pháp cú

 

Kinh Pháp Cú là một trong những văn tự cổ xưa nhất của Đạo Phật, lưu giữ tinh hoa của phẩm chất nhà Phật

Những lời giảng giải của Đức Phật được tổng hợp lại trong Kinh Pháp Cú luôn cho thấy sự giản dị và dễ hiểu khi giải thích các chân lý của Đạo Phật. Dù là ai chúng ta cũng có thể dễ dàng hiểu được nội dung muốn truyền tài của nó, và giúp ích cho sự tu tập hàng ngày nhờ những câu kệ tuyệt diệu này. Cũng chính Đức Phật đã từng nhấn mạnh rằng Ngài chỉ là người dẫn đường, chỉ ra và định hướng lại những tư tưởng sai lầm cho chúng sinh chứ Ngài không thể “cứu rỗi” hay tu đạo thay cho bất kỳ ai được cả. Vì thế mà con người cần phải tự mình tu hành thì mới có thể giải thoát cho chính mình được.

Mong rằng với những lời dạy tuyệt diệu của Ngài sẽ là một ngọn hải đăng trên biển hay như ngọn đuốc rực rỡ chiếu sáng đêm đen cho mọi chúng sinh trên thế gián. Kinh Pháp Cú sẽ là ngón tay chỉ hướng cho mọi hành vi, suy nghĩ hay tư duy của người đọc để đem lại an lạc và hạnh phúc cho chính mình. Chúng sinh tu hành theo Phật dạy, tự giác ngộ cái sai cái đúng để mà sửa sai thì sự giác ngộ đó sẽ giúp cho họ được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử đầy khổ đau.

Mỗi một bài kệ trong Kinh Pháp Cú đều là những lời giảng giải thâu tóm những tinh hoa giáo lý mà Đức Phật muốn truyền tải. Mỗi lời nói đều chứa đựng một cách ngắn gọn, súc tích nhưng không hề thiếu sự thấu đáo thế gian của Ngài. Kinh Pháp bao gồm 423 bài kệ được chia rõ ràng thành 26 phẩm. Mỗi một phẩm đều nói trọng tâm về một vấn đề chính trong cuộc sống của con người. Chứa đựng những lý giải sâu sắc nhất về mọi sự vật hiện tượng sẽ diễn ra trong cuộc đời của một người. 

Một số bản dịch của Kinh Pháp Cú

Kinh Pháp Cú khi được lưu truyền đến Việt Nam thì được vô số các tín đồ Phật giáo quan tâm. Trong đó, có rất nhiều các vị thiền sư, cao tăng đã tận tâm dịch lại sang tiếng Việt để mọi chúng sinh đều có thể được thừa hưởng những lời dạy tuyệt diệu này của Đức Phật. Trong đó có một số bản dịch nổi tiếng và sát nghĩa nhất dưới đây.

Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Bản dịch Kinh Pháp Cú nổi tiếng nhất tại Việt Nam phải kể đến bản dịch của Trưởng lão Hòa Thượng Thích Thiện Siêu. Bản dịch này được nhà xuất bản Phú Lâu Na ấn bản tại Hoa Kỳ Phật lịch 2546 – năm 2002. Hiện nay, quyển kinh này được Nhà xuất bản Hồng Đức cấp giấy phép xuất bản, với hình thức in ấn đẹp, là tài liệu cần thiết cho người học Phật và muốn tìm hiểu căn bản về tinh hoa giáo lý mà Đức Phật đã thuyết giảng hơn hai ngàn năm trăm năm trước.

Kinh Lời Vàng Dhammapada của Hòa Thượng Thích Minh Châu

Nổi tiếng không kém bản dịch của Trưởng lão Thích Thiện Siêu, bản dịch Kinh Lời Vàng Dhammapada của Hòa Thượng Thích Minh Châu cũng là một trong số những văn kệ được giới đánh giá cao. Khi dịch lại quyển kinh này, Hòa Thượng Thích Minh Châu đã có những chia sẻ cảm động: “Chúng tôi cho dịch theo thể kệ năm chữ một, để thật trung thành với nguyên văn, và quý vị sẽ thấy rõ sự cố gắng của chúng tôi, đã dịch hết sức sát với nguyên văn, và nhiều bài kệ có thể xem không thêm, không bớt, một chữ Pali chúng tôi cũng cố gắng tôn trọng đến mức tối đa. Vì đây là thể kệ chứ không phải là thể thơ nên không có thi hóa trong bản dịch của tôi”. 

Bản dịch của các Ni sinh thuộc thiền viện Viên Chiếu

Bên cạnh hai bản dịch vô cùng phổ biến kể trên thì các Ni sinh đến từ thiền viện Viên Chiếu cũng đã dịch lại quyển Kinh Pháp Cú nổi tiếng trong giới Đạo Phật này. Trong đó, các Ni đã lựa chọn dịch theo bản chữ Anh của học giả Eugène Valson Buxlingame. Còn nhà học giả này đã dựa trên nguyên tác Pháp Cú sơ giải bằng tiếng Pali, do nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1999, để dịch lại. Điểm đặc biệt của bản dịch này đó là sau mỗi câu Kinh các Ni đều nêu rõ điểm xuất xứ Phật dạy và có kèm theo sau đó là một mẩu chuyện, nêu rõ lý do mà Phật nói ra câu Kinh đó.

Bản dịch Lời phật dạy của luật sư Đinh Sĩ Trang

Có một bản dịch được khá ít người biết đến đó là bản dịch Lời Phật Dạy của luật Đinh Sĩ Trang. Bản dịch này cũng là dịch sang tiếng Việt của quyển Kinh Pháp Cú được ấn hành tại Úc năm 1997. Có lẽ vì lí do đó mà khá ít người Việt Nam biết đến bản dịch này.

145 bài trong tổng 423 bài kệ Kinh Pháp Cú

Dưới đây là 145 bài kệ nằm trong 10 Phẩm đầu trên tổng số 423 bài kệ của quyển Kinh Pháp Cú do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch lại. Cùng với một số hình ảnh mô phỏng các lời dạy đầu tiên trong mỗi phẩm được Họa sĩ Mr. P. Wickramanayaka vẽ và thể hiện để độc giả có thể tham khảo.

Phẩm song yếu

Phẩm song yếu

 

  1. Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,

Khổ não bước theo sau,

Như xe, chân vật kéo.

  1. Ý dẫn đầu các pháp,

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý thanh tịnh,

Nói lên hay hành động,

An lạc bước theo sau,

Như bóng, không rời hình.

  1. Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi

Ai ôm hiềm hận ấy,

Hận thù không thể nguôi.

  1. Với hận diệt hận thù,

Ðời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

Là định luật ngàn thu.

  1. Và người khác không biết,

Chúng ta đây bị hại.

Chỗ ấy, ai hiểu được

Tranh luận được lắng êm.

  1. Ai sống nhìn tịnh tướng,

Không hộ trì các căn,

ăn uống thiếu tiết độ,

biếng nhác, chẳng tinh cần.

Ma uy hiếp kẻ ấy,

như cây yếu trước gió.

  1. Ai sống quán bất tịnh,

Khéo hộ trì các căn,

ăn uống có tiết độ,

Có lòng tin, tinh cần,

Ma không uy hiếp được,

Như núi đá, trước gió.

  1. Ai mặc áo cà sa. (Áo màu vàng, chỉ bậc xuất gia)

tâm chưa rời uế trược,

không tự chế, không thực,

không xứng áo cà sa

  1. Ai rời bỏ uế trược,

giới luật khéo nghiêm trì,

tự chế, sống chân thực,

thật xứng áo cà sa.

  1. Không chân, tưởng chân thật,

chân thật, thấy không chân:

chúng không đạt chân thật,

do tà tư, tà hạnh.

  1. Chân thật, biết chân thật,

Không chân, biết không chân:

chúng đạt được chân thật,

do chánh tư, chánh hạnh.

  1. Như mái nhà vụng lợp,

Mưa liền xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm không tu,

Tham dục liền xâm nhập.

  1. Như ngôi nhà khéo lợp,

Mưa không xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm khéo tu,

Tham dục không xâm nhập.

  1. Nay sầu, đời sau sầu,

Kẻ ác, hai đời sầu;

Nó sầu, nó ưu não,

Thấy nghiệp uế mình làm.

  1. Nay vui, đời sau vui,

Làm phước, hai đời vui,

Nó vui, nó an vui,

Thấy nghiệp tịnh mình làm.

  1. Nay than, đời sau than,

Kẻ ác, hai đời than,

Nó than: ‘Ta làm ác’

Ðọa cõi dữ, than hơn.

  1. Nay sướng, đời sau sướng,

Làm phước, hai đời sướng.

Nó sướng: ‘Ta làm thiện’,

Sanh cõi lành, sướng hơn.

  1. Nếu người nói nhiều kinh,

Không hành trì, phóng dật;

Như kẻ chăn bò người,

Không phần Sa môn hạnh.

  1. Dầu nói ít kinh điển,

Nhưng hành pháp, tùy pháp,

Từ bỏ tham, sân, si,

Tĩnh giác, tâm giải thoát,

Không chấp thủ hai đời,

Dự phần Sa môn hạnh.

Phẩm Không Phóng Dật

Phẩm Không Phóng Dật

 

  1. Không phóng dật, đường sống,

Phóng dật là đường chết.

Không phóng dật, không chết,

Phóng dật như chết rồi.

  1. Biết rõ sai biệt ấy,

Người trí không phóng dật,

Hoan hỷ, không phóng dật,

An vui hạnh bậc Thánh.

  1. Người hằng tu thiền định,

Thường kiên trì tinh tấn.

Bậc trí hưởng Niết Bàn,

Ðạt an tịnh vô thượng.

  1. Nỗ lực, giữ chánh niệm,

Tịnh hạnh, hành thận trọng

Tự điều, sống theo pháp,

Ai sống không phóng dật,

Tiếng lành ngày tăng trưởng.

  1. Nỗ lực, không phóng dật,

Tự điều, khéo chế ngự.

Bậc trí xây hòn đảo,

Nước lụt khó ngập tràn.

  1. Chúng ngu si, thiếu trí,

Chuyên sống đời phóng dật.

Người trí, không phóng dật,

Như giữ tài sản quý.

  1. Chớ sống đời phóng dật,

Chớ mê say dục lạc.

Không phóng dật, thiền định,

Ðạt được an lạc lớn.

  1. Người trí dẹp phóng dật,

Với hạnh không phóng dật,

Leo lầu cao trí tuệ,

Không sầu, nhìn khổ sầu,

Bậc trí đứng núi cao,

Nhìn kẻ ngu, đất bằng.

  1. Tinh cần giữa phóng dật,

Tỉnh thức giữa quần mê.

Người trí như ngựa phi,

Bỏ sau con ngựa hèn.

  1. Ðế Thích không phóng dật, (Ðế Thích: Magha (Manavaka), vị lãnh đạo chư Thiên)

Ðạt ngôi vị Thiên chủ.

Không phóng dật, được khen ;

Phóng dật, thường bị trách.

  1. Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Bước tới như lửa hừng,

Thiêu kiết sử lớn nhỏ.

  1. Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Không thể bị thối đọa,

Nhất định gần Niết Bàn.

Phẩm Tâm

Phẩm Tâm

 

  1. Tâm hoảng hốt giao động,

Khó hộ trì, khó nhiếp,

Người trí làm tâm thẳng,

Như thợ tên, làm tên.

  1. Như cá quăng lên bờ,

Vất ra ngoài thủy giới;

Tâm này vùng vẫy mạnh,

Hãy đoạn thế lực Ma.

  1. Khó nắm giữ, khinh động,

Theo các dục quay cuồng.

Lành thay, điều phục tâm;

Tâm điều, an lạc đến.

  1. Tâm khó thấy, tế nhị,

Theo các dục quay cuồng.

Người trí phòng hộ tâm,

Tâm hộ, an lạc đến.

  1. Chạy xa, sống một mình,

Không thân, ẩn hang sâu (Trú xứ của Thức)

Ai điều phục được tâm,

Thoát khỏi Ma trói buộc. (Bao gồm: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới)

  1. Ai tâm không an trú,

Không biết chân diệu pháp,

Tịnh tín bị rúng động,

Trí tuệ không viên thành.

  1. Tâm không đầy tràn dục,

Tâm không (hận) công phá,

Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,

Kẻ tỉnh không sợ hãi.

  1. Biết thân như đồ gốm,

Trú tâm như thành trì,

Chống Ma với gươm trí ;

Giữ chiến thắng không tham

  1. Không bao lâu thân này,

Sẽ nằm dài trên đất,

Bị vất bỏ, vô thức,

Như khúc cây vô dụng.

  1. Kẻ thù hại kẻ thù,

Oan gia hại oan gia,

Không bằng tâm hướng tà, (Ý chỉ hướng về 10 pháp bất thiện như sát sanh v.v…)

Gây ác cho tự thân.

  1. Ðiều mẹ cha bà con,

Không có thể làm được,

Tâm hướng chánh làm được

Làm được tốt đẹp hơn.

Phẩm Hoa

 

 

  1. “Ai chinh phục đất này

Dạ ma, Thiên giới này?

Ai khéo giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa?”

  1. “Hữu học chinh phục đất,

Dạ ma, Thiên giới này.

Hữu học giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa.”

  1. “Biết thân như bọt nước,

Ngộ thân là như huyễn,

Bẻ tên hoa của ma,

Vượt tầm mắt thần chết.”

  1. “Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say, tham nhiễm,

Bị thần chết mang đi,

Như lụt trôi làng ngủ.”

48. Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say tham nhiễm,

Các dục chưa thỏa mãn,

Ðã bị chết chinh phục.”

  1. “Như ong đến với hoa,

Không hại sắc và hương,

Che chở hoa, lấy nhụy.

Bậc Thánh đi vào làng “.

  1. “Không nên nhìn lỗi người,

Người làm hay không làm.

Nên nhìn tự chính mình.

Có làm hay không làm.”

  1. “Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc nhưng không hương.

Cũng vậy, lời khéo nói,

Không làm, không kết quả.”

  1. “Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc lại thêm hương;

Cũng vậy, lời khéo nói,

Có làm, có kết quả.”

  1. “Như từ một đống hoa,

Nhiều tràng hoa được làm.

Cũng vậy, thân sanh tử,

Phải làm nhiều việc lành.”

  1. “Hương các loại hoa thơm

Không ngược bay chiều gió

Nhưng hương người đức hạnh

Ngược gió khắp tung bay

Chỉ có bậc chân nhân

Tỏa khắp mọi phương trời.”

  1. “Hoa chiên đàn, già la,

Hoa sen, hoa vũ quý,

Giữa những hương hoa ấy,

Giới hương là vô thượng.”

  1. “Ít giá trị hương này,

Hương già la, chiên đàn;

Chỉ hương người đức hạnh,

Tối thượng tỏa Thiên giới.”

  1. “Nhưng ai có giới hạnh,

An trú không phóng dật,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Ác ma không thấy đường.”

  1. “Như giữa đống rác nhớp,

Quăng bỏ trên đường lớn,

Chỗ ấy hoa sen nở,

Thơm sạch, đẹp ý người.”

  1. “Cũng vậy giữa quần sanh,

Uế nhiễm, mù, phàm tục,

Ðệ tử bậc Chánh Giác,

Sáng ngời với Tuệ Trí.”

Phẩm Ngu

 

 

  1. “Ðêm dài cho kẻ thức,

Ðường dài cho kẻ mệt,

Luân hồi dài, kẻ ngu,

Không biết chơn diệu pháp.”

  1. “Tìm không được bạn đường,

Hơn mình hay bằng mình,

Thà quyết sống một mình,

Không bè bạn kẻ ngu.”

  1. “Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu sanh ưu não,

Tự ta, ta không có,

Con đâu, tài sản đâu.”

  1. “Người ngu nghĩ mình ngu,

Nhờ vậy thành có trí.

Người ngu tưởng có trí,

Thật xứng gọi chí ngu.”

  1. “Người ngu, dầu trọn đời,

Thân cận người có trí,

Không biết được Chánh pháp,

Như muỗng với vị canh.”

  1. “Người trí, dầu một khắc,

Thân cận người có trí,

Biết ngay chân diệu pháp,

Như lưỡi với vị canh.”

  1. “Người ngu si thiếu trí,

Tự ngã thành kẻ thù.

Làm các nghiệp không thiện,

Phải chịu quả đắng cay.”

  1. “Nghiệp làm không chánh thiện,

Làm rồi sanh ăn năn,

Mặt nhuốm lệ, khóc than,

Lãnh chịu quả dị thục.”

  1. “Và nghiệp làm chánh thiện,

Làm rồi không ăn năn,

Hoan hỷ, ý đẹp lòng,

Hưởng thọ quả dị thục.”

  1. “Người ngu nghĩ là ngọt,

Khi ác chưa chín muồi;

Ác nghiệp chín muồi rồi,

Người ngu chịu khổ đau.”

  1. “Tháng tháng với ngọn cỏ,

Người ngu có ăn uống

Không bằng phần mười sáu

Người hiểu pháp hữu vi.”

  1. “Nghiệp ác đã được làm,

Như sữa, không đông ngay,

Cháy ngầm theo kẻ ngu,

Như lửa tro che đậy.”

  1. “Tự nó chịu bất hạnh,

Khi danh đến kẻ ngu.

Vận may bị tổn hại,

Ðầu nó bị nát tan.”

  1. “Ưa danh không tương xứng,

Muốn ngồi trước tỷ kheo,

Ưa quyền tại tịnh xá,

Muốn mọi người lễ kính.”

  1. “Mong cả hai tăng, tục,

Nghĩ rằng (chính ta làm).

Trong mọi việc lớn nhỏ,

Phải theo mệnh lệnh ta ”

Người ngu nghĩ như vậy

Dục và mạn tăng trưởng.

  1. “Khác thay duyên thế lợi,

Khác thay đường Niết Bàn.

Tỷ kheo, đệ tử Phật,

Hãy như vậy thắng tri.

Chớ ưa thích cung kính,

Hãy tu hạnh viễn ly.”

Phẩm Hiền Trí

  1. “Nếu thấy bậc hiền trí,

Chỉ lỗi và khiển trách,

Như chỉ chỗ chôn vàng

Hãy thân cận người trí!

Thân cận người như vậy,

Chỉ tốt hơn, không xấu.”

  1. “Những người hay khuyên dạy,

Ngăn người khác làm ác,

Ðược người hiền kính yêu,

Bị người ác không thích.”

  1. “Chớ thân với bạn ác,

Chớ thân kẻ tiểu nhân.

Hãy thân người bạn lành,

Hãy thân bậc thượng nhân.”

  1. “Pháp hỷ đem an lạc,

Với tâm tư thuần tịnh;

Người trí thường hoan hỷ,

Với pháp bậc Thánh thuyết.”

  1. “Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn gỗ,

Bậc trí nhiếp tự thân.”

  1. “Như đá tảng kiên cố,

Không gió nào giao động,

Cũng vậy, giữa khen chê,

Người trí không giao động.”

  1. “Như hồ nước sâu thẳm,

Trong sáng, không khuấy đục,

Cũng vậy, nghe chánh pháp,

Người trí hưởng tịnh lạc.”

  1. “Người hiền bỏ tất cả,

Người lành không bàn dục,

Dầu cảm thọ lạc khổ,

Bậc trí không vui buồn.”

  1. “Không vì mình, vì người.

Không cầu được con cái,

Không tài sản quốc độ,

Không cầu mình thành tựu,

Với việc làm phi pháp.

Vị ấy thật trì giới,

Có trí tuệ, đúng pháp.”

  1. “Ít người giữa nhân loại,

Ðến được bờ bên kia

Còn số người còn lại,

Xuôi ngược chạy bờ này.”

  1. “Những ai hành trì pháp,

Theo chánh pháp khéo dạy,

Sẽ đến bờ bên kia,

Vượt ma lực khó thoát.”

87.Kẻ trí bỏ pháp đen,

Tu tập theo pháp trắng.

Bỏ nhà, sống không nhà,

Sống viễn ly khổ lạc.”

  1. “Hãy cầu vui Niết Bàn,

Bỏ dục, không sở hữu,

Kẻ trí tự rửa sạch,

Cấu uế từ nội tâm.”

  1. “Những ai với chánh tâm,

Khéo tu tập giác chi,

Từ bỏ mọi ái nhiễm,

Hoan hỷ không chấp thủ.

Không lậu hoặc, sáng chói,

Sống tịch tịnh ở đời.”

Phẩm A La Hán

  1. “Ðích đã đến, không sầu,

Giải thoát ngoài tất cả,

Ðoạn trừ mọi buộc ràng,

Vị ấy không nhiệt não.”

  1. “Tự sách tấn, chánh niệm,

Không thích cư xá nào,

Như ngỗng trời rời ao,

Bỏ sau mọi trú ẩn.”

  1. “Tài sản không chất chứa,

Ăn uống biết liễu tri,

Tự tại trong hành xứ,

“Không vô tướng, giải thoát, ”

Như chim giữa hư không,

Hướng chúng đi khó tìm.”

  1. “Ai lậu hoặc đoạn sạch,

Ăn uống không tham đắm,

Tự tại trong hành xứ,

“Không, vô tướng giải thoát. ”

Như chim giữa hư không,

Dấu chân thật khó tìm. ”

  1. “Ai nhiếp phục các căn,

Như đánh xe điều ngự,

Mạn trừ, lậu hoặc dứt,

Người vậy, Chư Thiên mến.”

  1. “Như đất, không hiềm hận,

Như cột trụ, kiên trì,

Như hồ, không bùn nhơ,

Không luân hồi, vị ấy.”

  1. “Người tâm ý an tịnh,

Lời an, nghiệp cũng an,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Tịnh lạc là vị ấy.”

  1. “Không tin, hiểu vô vi.

Người cắt mọi hệ lụy

Cơ hội tận, xả ly

Vị ấy thật tối thượng.”

  1. “Làng mạc hay rừng núi

Thung lũng hay đồi cao,

La Hán trú chỗ nào,

Ðất ấy thật khả ái “.

  1. “Khả ái thay núi rừng,

Chỗ người phàm không ưa,

Vị ly tham ưa thích,

Vì không tìm dục lạc.”

Phẩm Ngàn

  1. “Dầu nói ngàn ngàn lời,

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu nghĩa,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

  1. “Dầu nói ngàn câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn nói một câu,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

102 “Dầu nói trăm câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu pháp,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

  1. “Dầu tại bãi chiến trường

Thắng ngàn ngàn quân địch,

Tự thắng mình tốt hơn,

Thật chiến thắng tối thượng.”

  1. “Tự thắng, tốt đẹp hơn,

Hơn chiến thắng người khác.

Người khéo điều phục mình,

Thường sống tự chế ngự.”

  1. “Dầu Thiên Thần, Thát Bà,

Dầu Ma vương, Phạm Thiên

Không ai chiến thắng nổi,

Người tự thắng như vậy.”

  1. “Tháng tháng bỏ ngàn vàng,

Tế tự cả trăm năm,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cùng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự.”

  1. “Dầu trải một trăm năm,

Thờ lửa tại rừng sâu,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cúng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự.”

  1. “Suốt năm cúng tế vật,

Ðể cầu phước ở đời.

Không bằng một phần tư

Kính lễ bậc chánh trực.”

  1. “Thường tôn trọng, kính lễ

Bậc kỳ lão trưởng thượng,

Bốn pháp được tăng trưởng:

Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.”

110. Dầu sống một trăm năm

Ác giới, không thiền định,

Tốt hơn sống một ngày,

Trì giới, tu thiền định.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Ác tuệ, không thiền định.

Tốt hơn sống một ngày,

Có tuệ, tu thiền định.”

112 “Ai sống một trăm năm,

Lười nhác không tinh tấn,

Tốt hơn sống một ngày

Tinh tấn tận sức mình.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp sinh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sinh diệt.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy câu bất tử,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được câu bất tử.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp tối thượng,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp tối thượng.”

Phẩm Ác

  1. “Hãy gấp làm điều lành,

Ngăn tâm làm điều ác.

Ai chậm làm việc lành,

Ý ưa thích việc ác.”

  1. “Nếu người làm điều ác,

Chớ tiếp tục làm thêm.

Chớ ước muốn điều ác,

Chứa ác, tất chịu khổ.”

  1. “Nếu người làm điều thiện,

Nên tiếp tục làm thêm.

Hãy ước muốn điều thiện,

Chứa thiện, được an lạc.”

  1. “Người ác thấy là hiền.

Khi ác chưa chín muồi,

Khi ác nghiệp chín muồi,

Người ác mới thấy ác.”

  1. “Người hiền thấy là ác,

Khi thiện chưa chín muồi.

Khi thiện được chín muồi,

Người hiền thấy là thiện.”

  1. “Chớ chê khinh điều ác,

Cho rằng “chưa đến mình “,

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần.”

  1. “Chớ chê khinh điều thiện

Cho rằng “Chưa đến mình, ”

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người trí chứa đầy thiện,

Do chất chứa dần dần.”

  1. “Ít bạn đường, nhiều tiền,

Người buôn tránh đường hiểm.

Muốn sống, tránh thuốc độc,

Hãy tránh ác như vậy.”

  1. “Bàn tay không thương tích,

Có thể cầm thuốc độc.

Không thương tích, tránh độc,

Không làm, không có ác.”

  1. “Hại người không ác tâm,

Người thanh tịnh, không uế,

Tội ác đến kẻ ngu,

Như ngược gió tung bụi.”

  1. “Một số sinh bào thai,

Kẻ ác sinh địa ngục,

Người thiện lên cõi trời,

Vô lậu chứng Niết Bàn.”

  1. “Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp.”

  1. “Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn khỏi tay thần chết.”

Phẩm Hình Phạt

  1. “Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người sợ tử vong.

Lấy mình làm ví dụ

Không giết, không bảo giết.”

  1. “Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người thích sống còn;

Lấy mình làm ví dụ,

Không giết, không bảo giết.”

  1. “Chúng sanh cầu an lạc,

Ai dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau không được lạc.”

  1. “Chúng sanh cầu an lạc,

Không dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau được hưởng lạc.”

  1. “Chớ nói lời ác độc,

Nói ác, bị nói lại,

Khổ thay lời phẩn nộ,

Ðao trượng phản chạm mình.”

  1. “Nếu tự mình yên lặng,

Như chiếc chuông bị bể.

Ngươi đã chứng Niết Bàn

Ngươi không còn phẩn nộ.”

  1. “Với gậy người chăn bò,

Lùa bò ra bãi cỏ;

Cũng vậy, già và chết,

Lùa người đến mạng chung.”

  1. “Người ngu làm điều ác,

Không ý thức việc làm.

Do tự nghiệp, người ngu

Bị nung nấu, như lửa.”

  1. “Dùng trượng phạt không trượng,

Làm ác người không ác.

Trong mười loại khổ đau,

Chịu gấp một loại khổ.”

  1. “Hoặc khổ thọ khốc liệt,

Thân thể bị thương vong,

Hoặc thọ bệnh kịch liệt,

Hay loạn ý tán tâm.”

  1. “Hoặc tai họa từ vua,

Hay bị vu trọng tội;

Bà con phải ly tán,

Tài sản bị nát tan.”

  1. “Hoặc phòng ốc nhà cửa

Bị hỏa tai thiêu đốt.

Khi thân hoại mạng chung,

Ác tuệ sanh địa ngục.”

  1. “Không phải sống lõa thể

Bện tóc, tro trét mình,

Tuyệt thực, lăn trên đất,

Sống nhớp, siêng ngồi xổm,

Làm con người được sạch,

Nếu không trừ nghi hoặc.”

142 “Ai sống tự trang sức,

Nhưng an tịnh, nhiếp phục,

Sống kiên trì, phạm hạnh,

Không hại mọi sinh linh,

Vị ấy là phạm chí,

Hay sa môn, khất sĩ.”

  1. “Thật khó tìm ở đời,

Người biết thẹn, tự chế,

Biết tránh né chỉ trích

Như ngựa hiền tránh roi.”

  1. “Như ngựa hiền chạm roi,

Hãy nhiệt tâm, hăng hái,

Với tín, giới, tinh tấn,

Thiền định cùng trạch pháp.

Minh hạnh đủ, chánh niệm,

Ðoạn khổ này vô lượng.”

  1. “Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn ván,

Bậc tự điều, điều thân.”

 

Xem thêm nguồn tại đây: https://phatgiao.org.vn/kinh-phap-cu-nguon-goc-y-nghia-va-cach-tri-tung-d48863.html

5/5 - (4 bình chọn)
0 replies

Leave a Reply

Want to join the discussion?
Feel free to contribute!

Trả lời