Quy Y Tam Bảo là gì?

Luân hồi không có điểm dừng, mỗi kiếp người chỉ như một giấc mộng ngắn ngủi trong chuỗi vô tận của sự tái sinh. Vậy trong luân hồi vô tận đó, có phương pháp nào để chúng ta ngừng lại không? Có cách nào để chúng ta kiểm soát số phận và sinh tử của cuộc đời mình không? Một trong những bước quan trọng đầu tiên là Quy Y Tam Bảo

Định nghĩa

Định nghĩa

 

Tam quy nói đủ được gọi là Quy y Tam Bảo. “Quy y” – Quy có nghĩa là “trở về, theo về”, y là “nương tựa, thuận theo”. Bên cạnh đó, trong chữ viết, Quy gồm bộ thủ Bạch “cõi sáng” và chữ Phản “quay về” và như vậy, Quy y cũng được hiểu là “quay về cõi sáng”, “dốc lòng tin theo”. “Tam Bảo” bao gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật bảo đề cập đến Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, người đã trải qua tu hành và giác ngộ lên thành Phật. Pháp bảo đại diện cho giáo pháp mà Đức Phật đã truyền bá, chỉ dẫn con người trên con đường tu hành.

Tăng bảo nhấn mạnh đến những tu sĩ tuân thủ giới luật và chánh pháp của Đức Phật. Như vậy, Quy y Tam bảo trong Phật giáo chỉ sự nương nhờ vào uy lực của Tam bảo để đạt được sự an lạc, không còn tạo nghiệp đau khổ.
Bên cạnh việc thực hiện Phật, Pháp và Tăng, các Phật tử quy y còn phải nắm rõ và giữ cho tốt các giới sau trong đạo Phật: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

Quy y Tam bảo bên ngoài

Phật Pháp Tăng là mục tiêu của chúng ta khi quy y. Chúng ta nguyện theo con đường đã được đức Phật chỉ dạy làm thế, đó là Qui y Phật. Quyết tâm thực hiện những lời chỉ dạy của Ngài trong kinh điển là Qui y Pháp. Tuân theo hướng dẫn tu hành của các chúng Tăng là Qui y Tăng.

Khi quy y, cuộc sống của chúng ta sẽ lấy Tam Bảo làm mẫu mực, và nhằm thẳng theo đó mà tiến tới, không còn nghi ngờ hay do dự như trước đây. Chúng ta là hoa tiêu, Tam Bảo là ngọn hải đăng. Hãy lái con thuyền thân mạng của chúng ta theo ngọn hải đăng đó mà đến đích. Phật pháp là sự tin tưởng tuyệt đối của người Phật tử, trong khi đó, Tăng cần phải cẩn thận để không nhầm lẫn.

Tăng là một tập đoàn Tăng lữ, không phải tính cách cá nhân, sống đúng theo tinh thần Lục hòa. Nếu một vị sư đại diện cho tập đoàn làm lễ Qui y cho Phật tử, vị sư ấy chính là tượng trưng cho tập đoàn. Qui y Tăng là qui y với những vị sư sống đúng theo tinh thần Lục hòa, không đơn thuần là cuộc hạn riêng của từng vị sư để nhận tam qui và ngũ giới.”

Nếu vị đại diện truyền qui giới đó có tu được hay không thì người thực hiện qui y theo qui giới vẫn đã Qui y Tăng. Khi qui y một vị Tăng, nghĩa là đã qui y tất cả các vị Tăng khác sống đúng tinh thần hòa hợp. Các Phật tử không nên hạn chế trong phạm vi của một người thầy riêng mà có quyền học hỏi từ tất cả các chư Tăng, Chỉ khi làm như vậy mới đúng tinh thần Qui y Tam Bảo bên ngoài.

Quy y Tam bảo tự tâm

Phật pháp luôn phải có đủ hai mặt, Tam Bảo bên ngoài là đối tượng cần tuân thủ, trong khi Tam Bảo tự tâm là bản chất của chúng ta. Bằng sự nương theo Tam Bảo bên ngoài, chúng ta phát triển và khám phá Tam Bảo của tự tâm mình. Trong ngoài tương hỗ để viên mãn công phu tu hành chính là mục tiêu quan trọng nhất của đạo Phật.

Vậy, Tam Bảo tự tâm là gì?

Phật bảo là tánh giác tồn tại sẵn trong chúng ta được coi. Pháp bảo là lòng từ bi và lòng thương xót dành cho tất cả chúng sinh. Tăng bảo là tâm hòa hợp với mọi người là. Nhờ có Phật bảo bên ngoài, chúng ta thức tỉnh tánh giác của mình, và trở về nương tựa vào tánh giác ấy là việc Qui y Phật. Nhờ có Pháp bảo bên ngoài, chúng ta khởi lên lòng từ bi đối với chúng sinh, và trở về nương tựa vào lòng từ bi của mình là việc Qui y Pháp.

Nhờ sự gợi lên của các chư Tăng bên ngoài, chúng ta trở về và nương tựa vào tinh thần hòa hợp và thảo thuận của mình là việc Qui y Tăng. Phật, Pháp và Tăng bên ngoài giúp chúng ta phát triển Tam Bảo Phật Pháp Tăng trong tâm hồn mình. Ví dụ như một người thầy giáo trở thành trợ duyên để học trò mở mang kiến thức. Nếu học trò lười biếng không muốn học, người thầy cũng sẽ trở nên vô ích.

Tương tự như vậy, nếu người Phật tử chỉ tin vào Tam Bảo bên ngoài mà không cố gắng đánh thức Tam Bảo trong chính mình, Tam Bảo bên ngoài cũng trở nên vô nghĩa. Tam Bảo bên ngoài là điều cần thiết cho người Phật tử, nhưng giác ngộ và giải thoát chỉ có thể đạt được thông qua Tam Bảo tự tâm. Việc chỉ biết về Tam Bảo bên ngoài mà không chấp nhận Tam Bảo tự tâm là bỏ qua sự lý. Người Phật tử chân chính phải coi trọng sự lý và tiếp thu sự viên mãn từ Tam Bảo tự tâm để khắc phục những trở ngại trên con đường tu tập.

Nghi thức quy y Tam bảo

Nghi thức quy y Tam bảo

 

Quy y là buổi lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của Phật tử. Nó là khởi đầu của cuộc hành trình để tiến tới mục đích giải thoát, vì vậy chúng ta không thể xem nhẹ hay cử hành các nghi lễ một cách bừa bãi. 

Trước ngày tổ chức lễ quy y, thân tâm của các tín đồ cần phải trong sạch: Về Thân, chúng ta phải tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo chỉnh tề, mang trong lòng niềm vui và hân hoan, hướng về Tam bảo. Còn về Tâm, người Phật tử cần ba lần sám hối để cho ba nghiệp được thanh tịnh. Chỉ khi đã tẩy gội cả ngoài và trong. người Phật tử mới xứng đáng để nhận lãnh pháp thanh tịnh cao quý của Tam bảo.

Buổi quy y có sự tham gia của người muốn quy y, vị thầy làm lễ quy y và phải được chứng minh trước Tam Bảo. Vị thầy làm lễ quy y được gọi là Bổn Sư thế độ, người có trách nhiệm tiến hành lễ quy y và truyền giới, để chính thức công nhận bạn là người Phật tử tại gia.

Theo nghiên cứu, lễ quy y thường bao gồm các nghi thức: Niêm hương, Bạch Phật, Tán hương Cúng dường và Đảnh lễ Tam bảo… Trong buổi lễ, phát nguyện “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng” được coi là quan trọng nhất. Nếu đối diện trước Tam bảo, với tâm thành tín, phát nguyện ba điều này, bạn sẽ chính thức trở thành người Phật tử.

Sau khi quy y Tam bảo, Bổn Sư thế độ sẽ trao truyền 5 giới và tùy thuộc vào ý nguyện của mỗi Phật tử, họ có thể nhận lãnh 5 giới hoặc chỉ 1-2 giới để tuân thủ trong cuộc sống hàng ngày.

Cần khẳng định rằng, mỗi bước tu tập phụ thuộc vào duyên số và sự lãnh ngộ cá nhân với đạo Phật. Người Phật tử không nên ép buộc hay “đốt cháy giai đoạn” khi chưa đủ duyên và lãnh ngộ. Mỗi người tu hành dựa theo nhân duyên và tiến trình của chính bản thân mình chứ không nên tự gò ép.

Cách đặt pháp danh cho Phật tử

Cách đặt pháp danh cho Phật tử

 

Khi quy y Tam bảo, mỗi Phật tử đều có một pháp danh riêng. Đầu tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của hai từ “pháp danh”. “Pháp” đại diện cho giáo pháp của Phật, gồm kinh, luật và luận, tức là những lời dạy của Phật. Pháp Phật có tác dụng giải thoát khỏi sự mê muội, giúp con người và chúng sinh thông suốt và có trí tuệ. Giảc ngộ tu sửa thân tâm, cải sửa thân khẩu, đi từ xấu đến tốt và cuối cùng thoát hoá khỏi chuỗi đời. “Danh” đề cập đến tên, tức là người quan tâm và chú ý đến Đạo Phật, yêu thích việc nghiên cứu giáo lý Phật. Sau khi Thầy đặt, pháp danh gọi là Thầy Bổn sư, tức là người Thầy chính thức của người Phật tử.

Hệ thống truyền thừa các tông phái Phật giáo Việt Nam, trong đó các thế hệ tổ sư được đặt pháp danh, pháp tự theo các bài kệ truyền thừa, xuất hiện từ thời tông Lâm Tế và tông Tào Động được truyền sang Việt Nam khoảng thế kỷ XVII. Phật giáo Thiền Tào Động và Lâm Tế đặt pháp danh cho người đệ tử nghiêm túc theo thứ tự từ trên xuống, từ trước đến sau. Ví dụ, dòng kệ của phái Lâm Tế bao gồm các tên: Đạo – Bổn – Nguyên – Thành – Phật – Tổ – Tiên/ Minh – Như – Hồng – Nhật – Lệ – Trung – Thiên/ Linh-  Nguyên – Quảng – Nhuận – Từ – Phong – Phổ/ Chiếu – Thế – Chơn – Đăng – Vạn – Cổ – Huyền.

Khi Thầy Bổn sư đặt pháp danh, cần có thông tin như họ tên, tuổi, quê quán của người xin quy y, cùng với tín tâm và tác phong của người này. Nếu Thầy Trụ trì thuộc dòng Thiền Lâm Tế, pháp danh của Thầy sẽ là cơ sở để đặt pháp danh cho người xin quy y. Ví dụ, nếu Thầy có pháp danh là Nguyên Trí, pháp danh cho đệ tử sẽ là Thành kết hợp với tên đời là Thật, tức là Thành Thật. Trong trường hợp này, người xin quy y là đệ tử, người đặt pháp danh là Thầy Bổn sư và chỉ Thầy mới có quyền đặt pháp danh cho đệ tử. Nói chung, trong đạo Phật, các Thầy rất quan tâm đến việc đặt pháp danh cho đệ tử xuất gia hoặc tại gia. Các Bổn sư nghiên cứu tên đời của đệ tử, vì nó thể hiện tính cách và tác phong của người đệ tử, và có quy tắc rõ ràng và chuẩn mực.

Lợi ích của Quy y Tam bảo

Lợi ích của Quy y Tam bảo

 

Việc quy y Tam bảo mang lại nhiều lợi ích cho người tu hành, không chỉ là cầu an lạc trong hiện tại mà cả cho đời sau, và cũng có thể nhờ vào sự yên tĩnh của Niết-bàn để được cứu giúp.

Dưới đây là tám lợi ích của việc quy y Tam bảo:

  1. Trở thành môn đệ của Phật.
  2. Đóng vai trò là nền tảng cho việc thọ giới.
  3. Giúp tiêu trừ nghiệp chướng.
  4. Tích lũy công đức lớn.
  5. Tránh được ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
  6. Bảo vệ khỏi sự lôi kéo của phi nhân (loài không phải người) và tránh lạc lối.
  7. Có thể thành công trong mọi công việc lớn.
  8. Được thành Phật đạo.

Phật đã nói rất nhiều về lợi ích của việc quy y Tam bảo, dưới đây là 5 ví dụ:

  1. Nếu ai quy y Tam bảo, họ sẽ nhận được phước báu to lớn không thể đếm hết. Việc này có thể được so sánh với việc nhận được một kho báu lớn mà người cả nước vận chuyển trong vòng bảy năm cũng không hết, nhưng công đức từ việc quy y Tam bảo còn vượt trội vạn lần. (Kinh Ưu Bà Tắc giới)
  2. Xưa kia, có một Thiên tử ở thiên cung Đao Lợi, sau khi tất cả phước lành của mình đã dùng hết, Thiên tử biết rằng mình sẽ bị đọa vào loài heo. Lo sợ, Thiên tử kêu cầu Thiên Vương cứu giúp nhưng Thiên Vương cũng hết cách. Sau đó, Thiên Tử đến cầu Phật và được khuyên rằng nên quy y Tam bảo để sau khi chết, không bị đầu thai vào loài heo mà được sinh ra làm người và tu học đạo Phật. (Kinh Triết Phù La Hán)
  3. Xưa kia, có một Thiên tử ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên, khi tất cả phước trời đã dùng hết, còn bảy ngày nữa sẽ chết. Mọi niềm vui, sự hoan lạc không còn, tướng mạo uy nghi cũng biến mất, từ cơ thể còn tỏa ra mùi hôi. Thiên tử cũng biết rằng ngài sẽ bị đầu thai thành súc sinh. Thiên Vương biết điều này và khuyên Thiên tử quy y Tam bảo. Sau bảy ngày, Thiên tử được sinh ra và sống trong cõi trời Đâu Suất. Khi Thiên Vương muốn biết nơi Thiên tử đã sanh ra, nhưng không thể nhìn thấy được, ông tới hỏi Phật. Phật giải thích rằng: “Nhờ công đức từ việc quy y Tam bảo, Thiên tử đã được sanh ra ở cõi trời Đâu Suất”. (Kinh Sát Cách Y Pháp Thiên Tử thọ Tam quy)
  4. Nếu có người xây dựng một Tháp để cúng dường tất cả các vị Thánh nhân đã đạt được chứng đắc nhị thừa trong Đông, Tây, Nam, Bắc trên tứ đại bộ châu, thì dù công đức của việc này rất lớn, nhưng vẫn không thể sánh ngang với công đức từ việc quy y Tam bảo. (Kinh Hiệu Lượng Công Đức)
  5. Xưa kia, có một vị Tỷ Kheo Sa Đẩu, nguyện tụng kinh và nhận danh hiệu của Tam bảo trong suốt mười năm. Nhờ điều này, người đã được chứng đắc sơ quả của Tu đà hoàn, và sau đó được tái sinh trong thế giới Phổ Hương với tư cách là vị Bích Chi Phật. (Kinh Mộc Hoạn Tử)

Những lưu ý đối với Phật tử khi Quy y Tam bảo

Các Phật tử mới qui y cần hiểu rõ rằng, sau khi trở thành người tu hành chính thức thì nhất định phải đi chùa ít nhất một lần trong tuần, đó là giữ đạo hành lễ. Chùa không nhất thiết phải là nơi họ đã qui y ban đầu mà có thể chọn ở một nơi thuận tiện nhất với Phật tử. Họ cũng cần có một bàn thờ Phật tại nhà và thường xuyên đọc kinh để ngày càng  thấu hiểu những lời dạy của đức Phật.

Các Phật tử mới qui y cũng cần lưu ý một số điểm sau đối với việc thờ cúng Phật: Họ có thể thờ tượng Phật theo ý nguyện và đặt tại một góc tâm linh yên tĩnh, tránh những nơi đông người qua lại. Nên tránh thờ cúng Phật tại những nơi thiếu sự trang trọng, uy nghi như trong phòng ngủ, nhà bếp…

Ngoài ra, các Phật tử nên thực hành ăn chay ít nhất hai ngày trong tháng, đó là mồng một và ngày rằm. Tuy nhiên, nếu có thể, nên ăn chay thường xuyên. Cần hiểu rằng việc ăn chay không chỉ để nhận phước báo mà còn là để tuân thủ giới luật không sát sanh, từ bỏ nợ nần với các sinh linh trong vòng luân hồi của đời sống. Khi hiểu đúng ý nghĩa, việc ăn chay sẽ bao gồm đầy đủ rau củ và ngũ cốc, mang lại sức khỏe dồi dào và bền vững hơn so với chế độ ăn mặn.

5/5 - (1 bình chọn)
0 replies

Leave a Reply

Want to join the discussion?
Feel free to contribute!

Trả lời