mục cập nhật những thông tin liên quan đến các công trình tâm linh như nhà thờ họ, đình chùa, khu tưởng niệm hay khu trưng bày kỉ vật …

Ấn Quang Đại Sư là ai?

Ấn quang đại sư là ai?

Trong sử sách Phật Pháp có ghi chép một vị đại sư là vị tổ thứ 13 của Tịnh độ tông. Vị đại sư này được biết đến là giữ giới nghiêm chỉnh, luôn luôn giữ tâm ngay thẳng. Từ thức ăn đến cả trang phục đẹp mang đến để dâng tặng, nếu không thể từ chối nhận thì người cũng sẽ tặng cho những vị xuất gia khác. Ngoài ra người cũng được biết đến với kho tàng lời dạy về kinh Phật và những lời khuyên trong đời sống tu hành. Mời các bạn hãy cùng thietkenhathoho.com tìm hiểu về Ấn Quang đại sư.

Sơ lược về Ấn Quang đại sư

Sơ lược về Ấn Quang đại sư

 

Hình ảnh chụp Ấn Quang đại sư

Ấn Quang đại sư có tên thật là Thánh Lượng, và có tên hiệu là Thường Tàm. Người sống ở thời đại khoảng cuối đời nhà Thanh, trước khi chuyển sang Trung Hoa Dân Quốc. Ngài là người con nhà họ Triệu ở Hiệp Tây. Từ ngày còn nhỏ, gia đình Ngài đã cho học nho giáo. Sau này trưởng thành người vẫn lấy đạo Khổng làm gương noi theo để hoàn thành trách nhiệm.

Ngài học theo thuyết của Hàn Dũ, Âu Dương Tu và các bài kinh của Phật giáo. Ở tuổi 21 người đã thông hiểu hết tất cả các kinh Phật, sau đó được xuất gia ở một ngôi chùa trên núi Chung Nam. Không lâu sau đó lại có duyên với thọ đại giới tại chùa Song Khê. Rồi Ngài trở bệnh, mấy năm sau đó tự thấy lỗi của mình đành hối lỗi, hồi tâm lại như trước kia.

Chỉ vừa sinh ra được sáu tháng, Ngài đã bị đau mắt, tuy không làm cho mù mắt nhưng mắt người khá yếu. Mắt thì lúc nào cũng hơi hơi đỏ, những cảnh vật xung quanh thì mờ mờ. Lúc đi thọ giới, vì tính cẩn thận và chữ viết đẹp nên đã được lên làm Thư ký. Nhưng vì quá nhiều công việc, ngày nào cũng phải viết, nên sau đó đôi mắt Ngài càng ngày càng đỏ hơn như huyết.

Trong một lần khi đi phơi kinh, ông đã đọc được Long Thơ Tịnh Độ, nhờ đó mà biết được việc niệm kinh Phật tạo ra công đức quan trọng đến chừng nào. Lúc thọ giới, ban đêm mọi người đi vào giấc ngủ, còn Người vẫn ngồi niệm kinh Phật, ban ngày thì viết chữ, không có lúc nào tâm không nghĩ về Phật. Nhờ cái tâm cung kính Phật, mà dù mắt có đỏ hoe, vẫn cố gắng chép.

Cho đến khi người được mãn thì bệnh mắt mới lành lại. Chính vì phép lành đó mà Ngài biết không nên ngừng nghỉ niệm Phật, phải một lòng thường xuyên niệm, và Ngài đã đưa ra lời khuyên cho mọi người khi niệm. Nhờ nhân duyên đó mà người đi tu học khắp nơi, nơi cuối cùng chính là chùa Pháp Võ. 

Cũng chính nhờ sự tìm hiểu, một lòng để tăng công đức, là một người ham học, chính vì vậy Ngài dễ dàng được thông qua các khóa học và đạt đến đỉnh cao của sự thấu hiểu Phật. Với kiến thức cao siêu, làm bất cứ việc gì cũng cẩn thận chi tiết nên đã được hòa thượng Hóa Văn mời đến làm bạn để thỉnh kinh cho Pháp Võ Tự.

Sau đó vì để tỏ lòng biết ơn thì vị hòa thượng đã thỉnh Ngài về lầu Tàng Kinh để tu niệm an tĩnh. Trong suốt 33 năm trôi qua đến khi nhà Thanh tàn lụi người vẫn luôn tu niệm mỗi ngày, yên tĩnh và ít giao tiếp bên ngoài.

Ngài sống ẩn mình, nhưng toàn thiên hạ thời ấy ai ai cũng biết đến. Có một vị cư sĩ trong một lần hành hương đến Pháp Võ đã dùng vài bài văn pháp của Đại sư mà đăng lên báo Phật học ở Thượng Hải, để với tên Thường Tàm. Chính nhờ vậy mà các độc giả càng ngày càng đông, ai cũng thắc mắc người ở đâu để đến cung kính.

Năm người 52 tuổi thì đã bị lộ ra nơi ở hiện tại, người người lũ lượt đến nơi đến xin Ngài khai sáng. Còn vị cư sĩ kia thì dùng những bài văn người tái bản và truyền bá khắp nơi cả trong và ngoài nước.

Vì lối sống ẩn tu của người nên lúc đầu nếu ai tới xin xuất gia người sẽ không chấp nhận, và sẽ hướng dẫn đến với vị pháp sư ở nơi khác. Cho đến một lần có vị cư sĩ khác đã đem lễ xin người làm đệ tử xuất gia, để được tu như Đại sư.

Sau khi suy nghĩ kĩ, khó lòng từ chối, không muốn cản con đường tu nên đành chấp nhận. Năm đó là năm Ngài được 59 tuổi, mới có một để tử xuất gia đầu tiên. Từ đó mà rất nhiều người đã viết thư xin làm đệ tử, một lòng mong người chấp nhận để được sống tu luyện hướng Phật. Dần dần số đệ tử từ một người mà lên đến trăm và đến ngàn người. Cũng có rất nhiều vị thành tâm tu niệm mà được sinh ra ở cõi Cực Lạc. 

Người được biết đến là một vị đại sư với tấm lòng ẩn dật, không thích phô trương. Ai cho đồ ăn, thức uống, y phục người sẽ không nhận. Nếu không thể từ chối được người cũng tặng cho người khác. Những đồ ăn thức uống sẽ đưa cho chùa quan lý, để cúng dường cho Phật. Dân có đưa bao nhiêu tiền cũng lấy đó để đi in sách kinh, cứu nạn cho dân chúng khó khăn, đi làm từ thiện bác ái.

Còn bản thân chỉ ăn cơm và quần áo đơn giản đến hết đời. Đại sư thường tài trợ các các nơi phóng sanh. Người cũng lập ra Hoằng Hóa Xã để in ấn, phát hành các kinh sách và các tượng Phật, tượng Bồ tát. Ngoài ra, Ngài cũng giúp cho các vị Tăng lập ra các cách giải cứu các chùa bị cho di dời. Năm 70 tuổi, thì được thỉnh đến một nơi có nhiều loài rệp. Người đã không rời đi mà ở đó cầu nguyện, từ đó mà không còn thấy loài rệp này nữa. Đại sư cũng dùng màu nhiệm của mình để cứu chữa những người mắc bệnh nan y.

Sau 3 năm ngày 24 tháng 10, Ấn quang đại sư vãng sanh. Sau đó 100 ngày sau người nhập Niết bàn. Lúc đó bầu trời trong xanh bỗng hiện ra ánh sáng 5 sắc. Tỏa ra màu nhiệm xá lợi của vị Đại sư. Sau đó những vị có lòng thành tâm bới tro kiếm được xá lợi. Phật giáo đương thời thấy được sự chân thật trong lối sống tu hành của đại sư và màu nhiệm kỳ lạ đó nhận định Ngài chính là bậc thánh. Sau đó kỉ niệm 1 năm viên tịch đã tôn người làm vị tổ thứ 13 của Tịnh độ tông.

Vì sao Người được gọi là hậu thế của đức Đại Thế Chí Bồ Tát?

Vì sao Người được gọi là hậu thế của đức Đại Thế Chí Bồ Tát?

Hình ảnh Bồ tát Đại Chí Thế

Chắc sẽ có nhiều người thắc mắc rằng tại sao lại gọi Ấn quang đại sư là hậu thế của Đại Thế Chí Bồ Tát. Để tìm hiểu biết được lý do tại sao phải bắt đầu từ câu chuyện mà Tuyên Hóa Thượng Nhân đã kể về Người. Ấn Quang đại sư là người thành tâm siêng năng ngồi niệm Phật mỗi ngày. Lúc người qua đời, hỏa thiêu thì có rất nhiều người đến tham dự, không thể đếm hết được.

Người tham dự hôm đó kéo dài từ đỉnh đến chân núi, cũng tầm khoảng 3 dặm. Sau khi thiêu thân thì bỗng có mầu nhiệm lạ trên trời phát ra 5 màu ánh sáng. Vài người đã bới tro lên lượm được xá lợi. Điều đó thể hiện được con đường tu hành người đã chánh quả, là người làm chứng cho những điều Phật dạy là đúng.

Ngài cho ta thấy được nhờ việc siêng năng đọc kinh, cầu nguyện, tu tâm dành được rất nhiều công đức và cả màu nhiệm được lên cõi Trời. Tất cả những người có mặt lúc đó đều trông thấy và tin vào mầu nhiệm 5 sắc.

Người cũng tỏ cho ta biết rằng nếu đã không có duyên với Phật thì kể cả Đại Bồ tát cũng không thể cứu chữa được. Người được biết đến với kiến thức và đạo đức vô cùng tốt, là một bậc cao tăng. Nhưng chỉ vì giọng nói người hơi nặng dẫn đến có người không thể tiếp thu lời giảng của Ngài. Cũng chính vì vậy người cũng ít khi thuyết giảng, mà đổi sang viết ra những cuốn sách về Phật. Sau này tái bản và mang đi khắp nơi, đời sau cũng được hưởng ơn phước này.

Cũng có một lần nọ, Ngài đi đến thành phố Thượng Hải xa hoa để đi giảng dạy, trên các báo đăng lên tin tức của Ấn Quang, khuyên mọi người đến nghe kinh để tăng công đức. Nhờ thế mà rất đông người đến xem, lễ nghi uy nghiêm, tráng lệ.

Lúc đó bỗng có một cư sĩ nói lại rằng: “Tôi đã mơ thấy người mặc áo giáp màu vàng, Ngài ấy đã nói tôi hãy đến Thượng Hải để nghe Bồ tát Đại Chí Thế giảng kinh”. Sáng hôm sau khi thấy tin tức cô đã đến đó, và đã nói chuyện trực tiếp với Ấn Quang đại sư.

Cô gái đó cũng đã thắc mắc Ngài có đúng là vị Bồ tát Đại Thế Chí hay không và đã kể lại giấc mơ đó. Lúc đó Ngài Ấn Quang đáp lại: “Sự việc này, con biết, ta biết, và đừng nói cho ai hay biết”. Vị cư sĩ đã giữ bí mật này đến khi Ngài viên tịch mới nói cho mọi người hay biết. Chính vì vậy mọi người mới suy tôn Ấn Quang đại sư là hậu thế của Bồ tát Đại Thế Chí. 

Lời dạy của ấn quang đại sư

Lời dạy của ấn quang đại sư

 

Những lời căn dặn của Ấn Quang đại sư

Sau đây là những lời Ngài Ấn Quang đã ghi chép lại hoặc giảng dạy cho muôn dân hiểu. Đây là những bài học, những lời khuyên sâu sắc mà Ngài muốn chúng sanh hiểu. Nhờ đó mà tu hành đúng cách, tăng công đức, hướng thiện lành cho bản thân.

Lời dặn về quy tắc tu học

Lời dặn về quy tắc tu học

 

Không được bỏ tu đó chính là tai họa

Về quy tắc tu học, phải lưu ý bản thân dù là tu tại gia hay xuất gia, phải chú ý kính trên nhường dưới, luôn nhẫn nại và kiên trì để đạt được điều mong ước. Phải cố gắng mỗi ngày, những việc người khác cảm thấy gian nan không thực hiện được, thì chính bản thân không ngại khó mà vượt qua. Chính lúc đó mọi điều mong ước sẽ được như ý. Khi tĩnh tâm phải nghĩ đến những lỗi lầm của mình để sám hối.

Không nên học thói sân si, nói xấu người khác, nói những điều xấu xa. Từ việc đi đứng đến ngồi nằm, sáng đến tối, cả ngày phải luôn để tâm đến Phật, có thể niệm Phật thầm vẫn được chấp nhận. Bản thân phải luôn tự nhắc nhở nên niệm Phật dù ở bất cứ nơi đâu.

Nếu có ý nghĩ ngừng việc niệm, phải tức khắc bỏ ngay suy nghĩ. Phải luôn luôn sám hối về những tội lỗi đã gây ra không chỉ ở hiện tại mà cả quá khứ. Nếu đã tu học không nên có suy nghĩ nông cạn, khoe khoang, kiêu căng, sân si.

Ta nên chăm sóc cho bản thân và gia đình không nên dính líu đến đời sống người khác. Lúc nào cũng nên học theo những gương tốt, không nên sa đọa những gương ác, làm hại bản thân. Nếu tu hành đúng theo những gì đã dạy như trên, nhất định sẽ được sanh lên cõi Trời.

Những điều dạy cho người niệm kinh Phật

Những điều dạy cho người niệm kinh Phật

 

Tìm nơi yên tĩnh để niệm Phật

Sau đây là 5 điều mà Ấn Quang đại sư muốn dạy cho người niệm kinh Phật.

  • Thứ nhất: Ta nên tìm nơi thanh tịnh, yên tĩnh để có thể tu hành. Tránh để bản thân bị bên ngoài ảnh hưởng đến.
  • Thứ hai: Ta phải nghĩ rằng chuyện tồn tại nơi trần gian không phải là mãi mãi, sẽ có ngày bản thân sẽ qua đời, có thể chỉ còn trong giây lát. 
  • Thứ ba: Ta phải sống ngay thẳng, luôn thiết tha, cung kính Phật mỗi ngày. Những ai hay nghe, hay tụng mỗi ngày tâm sẽ trong sạch và thanh tịnh. 
  • Thứ tư: Dù cho đã tu luyện tâm thành công nhưng không được kiêu căng, khoe khoang, sân si với ai khác.
  • Thứ năm: Đi bất cứ đâu, gặp ai cũng khuyên họ hãy niệm Phật, để sớm được lên cõi Trời.

Trong thế giới trần gian này không phải ai cũng siêu phàm mà thoát cửa tử, và được lên bậc thánh mà không làm gì cả. Nên khi niệm ta hãy nghĩ như mình đã chết, gạt bỏ đi đau khổ mình đang gặp phải. Chính lúc ta đã chết, mọi sự việc đang diễn ra ở hiện tại đều là hư vô. Nhờ cách ta niệm kinh như vậy sẽ giúp yên tĩnh hơn, tâm dễ thấm nhuần những lời dạy của Phật.

Những lời khuyên của ấn quang đại sư khi trì tụng 

Những lời khuyên của ấn quang đại sư khi trì tụng 

 

Hãy kiên trì, nhẫn nại ắt sẽ vượt qua

Lời khuyên của Ấn Quang đại sư dành cho các Phật tử khi trì tụng đó là dù ở bất cứ tư thế đi, đứng, ngồi, nằm, ăn uống đều phải nhớ niệm Phật. Dù bản thân có đang gặp khó khăn cũng không quên niệm kinh Phật. Những ai có thể đạt đến ngưỡng như vậy chắc chắn sẽ được đến bên Phật. Bản thân phải tập luyện lòng vị tha, rộng lượng với mọi người xung quanh. Phải nhẫn, chịu đựng những điều mà người khác không chịu đựng được, chịu được những nhọc nhằn không ai dám gánh vác. Không để tâm mình bị đánh mất, hay không để sinh tật đố kị với người khác.

Những người thường xuyên niệm Phật chính là những người hiếu thảo, yêu thương gia đình, luôn quan tâm đến cha mẹ và ông bà, là người có đạo đức tốt, ăn chay trường, tu thập thiện nghiệp,… Tổng hợp lại là người có phẩm chất tốt, hết lòng cho gia đình và xã hội, không ganh ghét, để bụng bất kỳ ai.

Bởi Phật sẽ không bao giờ có lòng nghĩ xấu về bất kì ai, thì người muốn đến cõi Trời sẽ được như Ngài. Ấn Quang đại sư cũng nói rằng ai thường niệm kinh Phật sẽ có ánh sáng của Phật dẫn họ đi đường thiện lành. Còn ai không thể dứt bỏ đi được, không đi theo con đường Phật dẫn sẽ chẳng thể nào đến nơi mong ước.

Những người có thời gian rảnh, nên dành xuyên ngày, xuyên đêm để niệm. Nhưng phải chú ý khi niệm thầm hay niệm ra tiếng phải để cơ thể sạch sẽ, quần áo nghiêm chỉnh và ở nơi thanh tịnh. Lúc ở những nơi dơ bẩn (thỏa thân, tắm rửa, đại tiện,…) không nên phát ra tiếng khi niệm.

Bởi hành động đó được cho là không được cung kính. Nhất là khi đi ngủ không nên phát tiếng vừa không thể hiện sự tôn trọng mà còn tổn hại thân khí. Niệm Phật cần quan trọng là tâm và bên ngoài nghiêm chỉnh có thể thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, nếu có lòng ắt hẳn sẽ được công đức.

Phương pháp niệm kinh Phật đúng đắn

Phương pháp niệm kinh Phật đúng đắn

 

Đủ đầy 6 căn

Để có thể niệm kinh Phật cho đúng đó là nhiếp trọn sáu căn. Ý nói lúc ta niệm tai phải lắng nghe cho kĩ, lúc nào tâm cũng phải nhớ đến Phật, khi niệm miệng phải đọc rõ ràng, mắt không được nhìn ngó lun tung. Mắt lúc niệm có thể hơn khép lại, không trừng mắt quá to.

Mũi cũng không được ngửi loạn lên, phải tập trung. Thân thì cung kính. Đó chính là 6 căn, khi niệm ta phải để 6 căn này thanh tịnh không được mất tập trung. Nếu không trọn vẹn được thì khó sinh công đức. Nếu bản thân cố gắng thường xuyên đạt được trọn 6 căn sẽ được gọi là “tịnh tiếp nối”. Người giữ được trạng thái như vậy đã đạt được thành công của niệm Phật.

Các Phật tử phải chú ý đến từng hành động của mình. Nếu tâm có điều đang vướng bận phải loại bỏ nó đi để khi niệm không ảnh hưởng. Khi niệm không để cho bản thân bị căng thẳng về mặt tinh thần. Nếu bị những bệnh như đau đầu, ngứa,… nên tìm cách cho hết hẳn rồi hẳn niệm.

Không nên lười biếng lần chuỗi, vì lâu ngày sẽ thành thói quen xấu. Niệm Phật cũng được coi là cách dọn cho tâm mình sạch sẽ hơn, loại trừ đi thói quen xấu. Phật sẽ là người soi sáng, dạy ta biết đâu là vết nhơ trong lòng để ta dọn sạch sẽ.

Người niệm không được ỷ lại sự thông minh của mình mà không chịu hiểu những lời Phật dạy. Những điều ta hiểu được ở thế gian này chưa chắc là đáp án đúng. Phật là đáp án hoàn hảo nhất để ta làm theo. Bởi chính Ngài đã mở ra Phật giáo, đã mở ra cõi Tây phương cho ta noi theo. Vậy có gì là sai khi ta không hết lòng tin Phật. 

Khi niệm Phật ta chỉ cần nhớ chữ “A Di Đà Phật” để tránh nhiều chữ không thể nhớ hết. Ngoài ra niệm thầm không sai cũng sẽ tạo ra công đức như ta niệm ra tiếng. Ta nên biết nên niệm như thế nào trong từng hoàn cảnh khác nhau. Quan trọng hơn cả là tâm ta được lời niệm đánh động, nhắc nhở ta thanh tịnh để sám hối trọng tâm. Niệm kinh phải rõ ràng, cung kính, không phải ào ào đọc sẽ được công đức. Nếu tâm tịnh, bên ngoài nghiêm chỉnh, thì công đức lớn vô vàn.

Bài học về lòng thành kính

Bài học về lòng thành kính

 

Phải tỏ lòng thành và cung kính Phật.

Lòng thành và sự cung kính là hai điều buộc phải có trên con đường tu học. Nếu ta không có hai việc này sẽ như cây không được tưới nước, sẽ héo mà không được ơn phước gì cả. Niệm Phật chính là cách dễ dàng nhất mà lại được nhiều công đức. Nếu ta lười biếng không chú tâm không chỉ không được công đức, mà còn sinh ra thêm tội lớn là tội khinh thường Phật. Tội lớn này không nhận ra sớm để hối cải, thì sẽ bị đọa đường ác.

Ấn Quang Đại sư đã nói rằng: “Nếu muốn hưởng được những hương hoa từ Phật Pháp phải cầu nguyện ở nơi cung kính. Ở nơi càng cung kính sẽ trừ đi 1 phần nghiệp ác và tăng thêm 1 phần công đức. Có thêm được 10 phần cung kính sẽ trừ 10 phần nghiệp ác và tăng thêm 10 phần ơn phước. Nếu không chú ý mà cung kính sẽ vừa mắc tội nghiệp xấu, ơn phước cũng giảm đi”.

Ở những buổi lễ, tụng, niệm đều phải tỏ lòng thành kính. Bởi nếu không thành kính thì chỉ như một buổi hát tuồng bình thường. Chẳng thể hiện điều gì đến Phật, cũng chẳng tỏ ý mong ước, tất cả đều là vô nghĩa. Nhưng xuất phát từ thâm tâm ta, mà bày tỏ ơn thiêng của Phật, tỏ lòng từ bi, tôn kính Ngài.

Ắt hẳn những người như vậy sẽ được Phật soi sáng. Khi nói đến thành phải đi cùng với sự cung kính, đây chính là điều mà Ấn Quang đại sư muốn ta thấu hiểu. Từ đó là nền tảng vững chắc để thấu hiểu lời Phật.

Lời khuyên cho những người bệnh

Lời khuyên cho những người bệnh

 

Niệm kinh là liều thuốc chữa lành.

Những người niệm Phật khi bị bệnh nếu tuổi đời chưa hết sẽ được lành bên sớm. Những người bị bệnh nên dùng toàn tâm để niệm Phật, vừa để tiêu đi nghiệp xấu, vừa giúp lành bệnh. Tuổi thọ vừa hết sẽ được Phật dẫn đưa đến cõi Tây phương cực lạc.

Bởi công đức từ kiếp trước đã diệt trừ tận diệt hết nghiệp ác. Còn ai cứ buồn bã mà buông xuôi, không niệm Phật mà mong cầu khỏe lại. Thì không chỉ không hết bệnh mà khi qua đời vẫn không được theo mong ước. 

Thường khi bị bệnh ta có thể dùng thuốc để chữa trị, nhưng đó không phải điều bắt buộc. Bệnh nặng có dùng thuốc tiên cũng khó lòng mà chữa được, nói chi đến thuốc của người phàm.

Nhưng có loại thuốc luôn được sử dụng đó chính là siêng năng niệm kinh. Không chỉ không làm hao tổn tâm trí mà còn giúp tâm tịnh hơn để niệm. Chỉ cần niệm kinh thì bệnh nào cũng được chữa lành.

Niệm Phật cũng như việc ta uống thuốc. Nếu ta biết nguồn gốc rõ ràng, hiểu rõ bệnh tình thì sẽ chữa trị được đúng bệnh. Toa thuốc này trị được bách bệnh, những quan trọng ta phải hiểu được thì mới mau lành. Bởi vậy, không phải ai cũng có thể hết bệnh được, chỉ có người thấu hiểu mới đạt được. Nếu siêng năng niệm Phật ắt hẳn bệnh tự sinh sẽ tự diệt đi.

Lễ Hằng Thuận

Lễ Hằng Thuận là gì?

Hôn nhân vốn là chuyện cả đời, vậy nên hầu như tất cả các cặp đôi yêu nhau đi đến kết hôn đều mong muốn một cuộc sống hôn nhân như ý. Với nguyện vọng đó, Phật giáo Việt Nam có một nét đẹp tôn vinh cũng như chúc phúc cho vợ chồng qua lễ Hằng Thuận. Buổi lễ giống như một hôn lễ bình thường nhưng lại được sự chúc phúc của nhà Phật, giúp vợ chồng có những hành tranh ban đầu để hôn nhân mãi luôn tươi đẹp. 

Lễ Hằng Thuận là gì?

Lễ Hằng Thuận là gì?

 

Lễ Hằng Thuận trong Phật giáo Việt Nam vốn dĩ chính là một lễ cưới giống với truyền thống của người Việt Nam nhưng được tổ chức tại chùa dưới sự chứng kiến và chúc phúc của nhà Phật.

“Hằng” có nghĩa là trường tồn, vĩnh cửu, còn “Thuận” có nghĩa là êm ấm, thuận hòa. Vì thế hai từ này được ghép với nhau nhằm mang đến một mối quan hệ êm ấm, thuận hòa, tốt đẹp và gắn kết giữa người với người, đặc biệt đó là đạo vợ chồng trong hôn nhân. Lễ Hằng Thuận trong Phật giáo Việt Nam vốn dĩ chính là một lễ cưới. Nhưng thay vì theo truyền thống của người Việt, hôn lễ sẽ không tổ chức tại nhà mà nó sẽ được tổ chức ở trong chùa với người chủ hôn cũng là người chứng kiến hôn nhân của cặp vợ chồng sắp cưới là thầy trụ trì hay hòa thượng. 

Nghi thức tốt đẹp này bắt nguồn từ tín ngưỡng của Phật giáo cùng với sự phát triển của thời đại, nghi thức này càng được phổ biến và mang nhiều ý nghĩa hơn. Có rất nhiều cặp vợ chồng du không theo đạo Phật nhưng cũng mong muốn được tổ chức hôn lễ tại chùa nhằm tôn vinh vẻ đẹp của hôn nhân trở nên linh thiêng hơn.

Giống với các hôn lễ truyền thống ở Việt Nam khác, Lễ Hằng Thuận cũng có những lễ nghi như tuyên bố lý do của lễ kết hôn, lễ cầu phúc cho cặp đôi, cặp đôi tiến hành trao nhẫn cưới và sau cùng là nhận lời chúc tụng của hai họ nhà trai, nhà gái. Bên cạnh lời chúc phúc của họ hàng đôi bên thì các vị sư tăng, ni cô trong chùa cũng gửi đến cặp vợ chồng những lời chúc tốt đẹp cho hôn nhân của họ. Điều đặc biệt đối với hôn lễ này là hôn nhân sắp tới của cặp đôi sẽ được Đức Phật linh thiêng chứng kiến và chúc phúc. 

Nguồn gốc của Lễ Hằng Thuận?

Nguồn gốc của Lễ Hằng Thuận?

 

Ở Việt Nam, Lễ Hằng Thuận đầu tiên được tổ chức là vào năm 1930.

Nguồn gốc hình thành của Lễ Hằng Thuận được xem là khá xa xôi. Lúc bấy giờ khi Đức Phật còn chưa nhập cõi niết bàn, trên hành trình đi thuyết giáo của Ngài, Ngài đã có chuyến về thăm kinh thành Ca Tỳ La. Trùng hợp vào ngày vương tử Ma Ha Nam cưới vợ, tất cả mọi người tại kinh thành đã cung thỉnh Ngài cùng với đoàn Tăng đến chung vui đám cưới của vương tử.

Vì thế, cuộc hôn nhân giữa vương tử Ma Ha Nam và vợ của vương tử đã được Đức Phật chứng kiến. Cũng tại đám cưới này, Đức Phật đã chúc phúc cho đôi vợ chồng đồng thời ngài cũng có những lời dạy về đạo làm vợ chồng, bổn phận làm vợ, làm chồng; bổn phận làm cha, làm mẹ và làm con cái cho cặp đôi. Tuy nhiên, vào thời gian này các vị chư Tăng rất ít khi đến dự đám cưới của dân chúng bình thường. Giống với phong tục ở Việt Nam, đám cưới của dân chúng thường là dịp ăn uống, chơi bời nhậu nhẹt, hát ca được cho là không phù hợp với con đường tu hành của nhà Phật. 

Còn ở Việt Nam, theo nhiều tư liệu ngày xưa mà Phật giáo để lại, người ta cho rằng đám cưới đầu tiên được tổ chức tại chùa là do cụ đồ Nguyễn Trọng Thuật (1883 – 1940) đề xuất. Cụ đồ Nguyễn Trọng Thuận vốn là một nhà Nho có bút hiệu là Đồ Nam Tử, quê hương ông là ở Hải Dương, sau này ông quy y nơi cửa Phật. Cùng với lòng nhiệt thành phụng sự Phật pháp, ông đã có nhiều suy nghĩ về việc tổ chức hôn lễ  tại chùa sẽ mang lại lợi ích lớn lao cho đời sống gia đình của người phật tử, nhất là đời sống đạo đức tâm linh.

Đến năm 1930, bác sĩ Lê Đình Thám, ông cũng có pháp hiệu nhà phật là đệ tử Tâm Minh đã tổ chức hôn lễ cho người con gái đầu tiên của mình là bà Lê Thị Hoành cùng với con rể của ông là ông Hoàng Văn Tâm tại chùa Từ Đàm – Huế. Có thể xem đây là hôn lễ được tổ chức tại chùa đầu tiên ở Việt Nam ta. Sau này, các hôn lễ được tổ chức tại chùa chính thức được đặt tên là lễ Hằng Thuận với tên gọi đã được giải thích như trên. Tên gọi này được Hòa Thượng Thích Thiện Hòa đặt ra vào năm 1971.

Ý nghĩa Lễ Hằng Thuận với hôn nhân

Ý nghĩa Lễ Hằng Thuận với hôn nhân

 

Lễ Hằng Thuận mang một ý nghĩa vừa tốt đẹp cho hôn nhân lứa đôi vừa mang ý nghĩa tâm linh trong đời sống hôn nhân.

Với sự tôn trọng của nhà Phật đối với tình yêu đôi lứa, Lễ Hằng Thuận chỉ được diễn ra dưới sự chấp nhận và hoàn toàn tự nguyện của cặp đôi sắp cưới. Điều này có ỹ nghĩa rằng, nhà Phật muốn cô dâu chú rể phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với cuộc hôn nhân sắp tới và mong muốn chứng minh tình yêu với Đức Phật.Chỉ có thế thì Đức Phật sẽ là người chứng hôn cho nhân duyên này.

Điều thứ hai đó là trong khi diễn ra hôn lễ tại chùa cặp vợ chồng sẽ được nghe những lời dạy bảo về trách nhiệm cũng như thái độ giữa vợ và chồng từ phía chủ hôn. Đây sẽ là những đạo lý làm vợ làm chồng với nhau để cặp đôi chuẩn bị hành trang xây dựng cuộc sống hôn nhân tốt đẹp sắp tới.

Và một điều nữa đó là cho thấy sự linh thiêng của hôn nhân. Dưới sự chứng giám và chúc phúc từ phía Đức Phật cũng như các vị tăng ni, cô dâu và chú rể cùng với đôi bên gia đình họ hàng sẽ nhận thấy được sự quan trọng và thiêng liêng của hôn nhân. Tình yêu đôi lứa được Đức Phật chứng kiến sẽ là niềm tin, là động lực lớn để cặp đôi nỗ lực hơn trong việc giữ gìn hôn nhân và bảo vệ nhau nhiều hơn. 

Các nghi thức trong Lễ Hằng Thuận

Các nghi thức trong Lễ Hằng Thuận

 

Các nghi thức của Lễ Hằng Thuận được diễn ra theo trình tự khá giống với những hôn lễ trong dân gian nhưng được thêm màu sắc thiêng liêng hơn.

Các nghi thức của Lễ Hằng Thuận được diễn ra theo trình tự khá giống với những hôn lễ trong dân gian. Trước tiên, hai bên thông gia cần thống nhất ngày lành tháng tốt để tổ chức hôn lễ, sau đó là đến ngôi chùa mà họ muốn chứng hôn để xin ý kiến các sư trụ trì trong chùa về cách thức diễn ra buổi lễ. 

Trước khi buổi lễ được diễn ra khoảng 3 đến 5 ngày, các cặp vợ chồng chuẩn bị kết hôn sẽ được các vị sư thầy trong chùa giảng giải về các đạo lý hôn nhân, đạo làm vợ làm chồng. Từ đó chuẩn bị trước tâm lý cũng như những hành trang quan trọng trong cuộc sống hôn nhân sau này. Vào ngày diễn ra Lễ Hằng Thuận, buổi lễ thường sẽ kéo dài khoảng hơn một giờ, trong đó các bước đã được lên kế hoạch như sau:

Ổn định chỗ ngồi

Trước khi hôn lễ bắt đầu diễn ra, các vị sư thầy, sư cô trong chùa cùng với họ hàng thân thiết của cô dâu chú rể sẽ dẫn những vị quan khách ổn định vị trí, chỗ ngồi. Thông thường, khoảng trống giữa điện là nơi hôn lễ diễn ra, còn hai bên được chia ra thành hai dãy dành riêng cho nhà trai và nhà gái. Nhà trai thường sẽ được sắp xếp ngồi bên trái, còn nhà gái sẽ là bên phải. Trong lúc gia đình hai bên đang sắp xếp chỗ ngồi cho khách khứa, các sư thầy khác sẽ tiến hành đốt nhang và xông trầm. Khi sự chuẩn bị đã được hoàn thiện, vị hòa thượng trụ trì hôn lễ ngày hôm đó sẽ bước ra trong sự đón tiếp long trọng của mọi người tại buổi lễ.

Tiến hành nghi lễ chính

Bắt đầu buổi lễ, vị hòa thượng chủ trì hôn lễ hướng dẫn cô dâu và chú rể quỳ trước một cái bàn dài. Cả hai người đều phải cùng hướng về Đức Phật. Nếu như trước đó cặp đôi chưa được quy y thì sư thầy chủ trị sẽ trực tiếp làm lễ quy y cho cô dâu và chú rể. Lúc này cả hai sẽ được cầu nguyện và nhận lời chúc phúc và dặn dò từ vị chủ hôn. Dây tơ hồng sẽ được các vị sư thầy hỗ trợ cho cặp đôi buộc lên tay là minh chứng cho sự gắn kết bền chặt trong hôn nhân cũng như là một lời hứa hẹn bên nhau trọn đời của cô dâu chú rể. 

Sau khi vị chủ hôn thông báo kết thúc nghi thức gắn kết, đôi vợ chồng mới cưới sẽ đến hai bên nội ngoại để quỳ lạy và nhận những lời chúc phúc từ họ. Sau đó, cô dâu và chú rể sẽ cùng ký tên vào giấy chứng nhận, trao nhau nhẫn cưới minh chứng trong niềm hân hoan và chúc phúc của các quan khách và người thân. Trong lúc các nghi lễ lần lượt được diễn ra, vị hòa thượng chủ hôn sẽ đọc và trao cho cặp vợ chồng những lời thuyết giảng và đạo lý hôn nhân sâu sắc.

Tiến hành nghi lễ phụ

Cuối cùng, khi nghi lễ chính là gắn kết và trao nhẫn kết thúc, nghi lễ phụ sẽ diễn ra. Khách khứa cùng với đôi bên họ hàng được người nhà cô dâu chú rể sắp xếp đến bàn tiệc chung vui. Trà bánh và tiệc chay sẽ được dọn lên để mọi người trong buổi lễ thưởng thức.

Bổn phận của vợ chồng đối với nhau theo quan niệm của Phật giáo

Bổn phận của vợ chồng đối với nhau theo quan niệm của Phật giáo

 

Những lời đức Phật dạy về đạo lý làm vợ làm chồng trong hôn nhân vợ tại kinh Thiện Sanh hay kinh Ca Thi La Việt.

Như đã nói ở trên, xuyên suốt buổi lễ cặp đôi sẽ được sư thầy chủ trì giảng dạy các thuyết giáo về đạo lý hôn nhân. Những đạo lý này chính là những lời đức Phật đã dạy trong kinh Thiện Sanh hay kinh Ca Thi La Việt.

Bổn phận của người chồng

Tuy rằng thời đại ngày càng phát triển, xã hội cũng có nhiều cái nhìn khác nhau và đa chiều hơn trong đời sống vợ chồng. Nhưng nhìn chung những đạo lý hay lời dạy của Đức Phật vẫn phù hợp và chứa đựng nhiều giá trị dạy bảo. Trong đó, bổn phận của người chồng đối với người vợ là:

“1. Phải biết tôn trọng vợ

  1. Không bất kính hay đối xử tệ bạc với vợ
  2. Phải chung thủy, trung thành với vợ
  3. Phải tin tưởng giao tài sản tiền bạc cho vợ quản lý
  4. Phải sắm đồ nữ trang cho vợ một khi có điều kiện”

Bổn phận của người vợ

Đức Phật cũng khuyên răn và có những lời giảng dạy về bổn phận của người vợ đối với người chồng:

“1. Phải luôn làm tròn bổn phận trong nhà

  1. Phải vui vẻ tử tế với quyến thuộc bên chồng
  2. Phải luôn chung thủy với chồng.
  3. Giữ gìn cẩn thận đồ trang sức và luôn coi sóc giữ gìn của cải đồ dùng trong nhà.
  4. Luôn siêng năng, không bao giờ trút tháo công việc cho người khác.”

Những lưu ý khi tổ chức Lễ Hằng Thuận

Những lưu ý khi tổ chức Lễ Hằng Thuận

 

Có một số điều quan trọng mà gia đình đôi bên cũng như cặp vợ chồng cần phải lưu ý khi tổ chức Lễ Hằng Thuận tại chùa

Để lễ Hằng Thuận được diễn ra một cách trơn tru và không vướng vào những điều cấm kỵ trong nhà chùa. Gia đình hai bên cần phải lưu ý một số vấn đề như sau: 

  • Trước khi tổ chức hôn lễ nên thông báo cho nhà chùa biết đôi vợ chồng sắp cưới đã quy y và có pháp danh hay chưa. 
  • Gia đình hai bên và cặp đôi nên dành thời gian đến chùa để bàn bạc với các vị sư thầy về việc xin phép tổ chức lễ cưới và chuẩn bị chu đáo mọi thứ cho các lễ nghi vào ngày kết hôn. 
  • Thông thường hôn lễ sẽ được các vị sư thầy trong chùa chuẩn bị để đảm bảo không vướng vào những điều cấm kỵ. Nếu như gia đình hai bến muốn trang hoàng để tăng thêm không khí cho buổi lễ thì nên xin phép và bàn bác với nhà chùa, sau đó tiến hành trang trí dưới sự hướng dẫn của các vị sư thầy.
  • Nếu gia đình chủ đích tổ chức hôn lễ tại đây thì nên đặc biệt lưu ý cho khách mời trong ngày lễ về cách hành xử và ăn mặc phù hợp với môi trường Phật giáo. Thường thì trang phục nên kín đáo, ăn nói cần nhỏ nhẹ, có thái độ trang nghiêm. 
  • Có một số ngôi chùa chỉ cho phép gia đình tổ chức hôn lễ tại đây chứ không cho phép tổ chức tiệc trà hay tiệc ăn uống chung vui trong khuôn viên nhà chùa vì sợ làm ảnh hưởng đến tu hành của các vị sư thầy. Vì thế gia đình nên hỏi trước với thầy trị chì đảm bảo không có vướng mắc gì. Nếu như được phép tổ chức tiệc ăn uống thì gia đình nên chọn làm những món chay hoặc tiệc bánh trà nhẹ nhàng để phù hợp với không khí trang nghiêm của chùa.
hình ảnh tiêu diện đại sĩ

Tiêu diện đại sĩ là ai? Vì sao tượng của tiêu diện đại lại xuất hiện trong chùa?

Tại các ngôi chùa ta sẽ hay thấy tượng Tiêu diện đại sĩ được đặt bên cạnh tượng Hộ pháp vi đà. Đây là hai vị Phật trấn an dân chúng, mang lại sự an bình cho trần gian. Vậy Tiêu diện đại sĩ là ai? Ý nghĩa như thế nào trong việc thờ cúng Người ở Việt Nam? Mời quý độc giả hãy cùng thietkenhathoho.com đọc hiểu bài viết sau để giải đáp những thắc mắc về Tiêu diện đại sĩ.

Tượng hộ pháp vi đà - Tượng tiêu diện đại sĩ

 

Tượng hộ pháp vi đà – Tượng tiêu diện đại sĩ

Tiêu diện đại sĩ là ai?

Tiêu diện đại sĩ còn được gọi là ông Tiêu hay ông Ác và thường được thờ phụng tại nhiều ngôi chùa ở Trung Quốc, Việt Nam. Tại các ngôi chùa, tượng của vị này sẽ được thờ bên trái còn bên phải là thờ hộ pháp vi đà (còn gọi là ông thiện).

Nếu bạn hay đi đến chùa chiền bạn sẽ thấy hai vị thần này ở chính diện, một vị là thể hiện sự dữ dằn (tiêu diện đại sĩ) và một vị hiền lành (hộ pháp vi đà). Theo như sử sách lưu lại, Tiêu diện đại sĩ chính là hóa thân của vị Bồ tát Quán Thế Âm. Nhiệm vụ của ông là trừng trị những quỷ yêu và giúp đỡ chúng sanh.

 

Hình ảnh Tiêu diện đại sĩ

 

Hình dáng bên ngoài của ông Tiêu là hình ảnh một vị tướng oai phong, nghiêm nghị. Với trang phục võ tướng, tay trái thì chống nạnh, tay phải thì cầm cờ với gương mặt đáng sợ. Ở trên đầu và trán có 3 cái sừng nhọn hoắt, miệng rộng, răng nanh dài mọc lởm chởm, miệng khét ra lửa, mắt to lồi trông rất kinh dị và chiếc lưỡi cong dài qua ngực.

Xem thêm: Bài văn khấn đi chùa đơn giản

Sử sách ghi chép về tiêu diện đại sĩ

Sử sách ghi chép về tiêu diện đại sĩ

 

Hình ảnh về tướng mạo Bồ tát Quan Thế Âm

Ngoài được gọi với tên ông Tiêu hay ông Ác, thì ông cũng có những tên gọi khác như: Tiêu diện đại quỷ vương, Diện nhiên quỷ vương, Diện nhiên, Diện nhiên đại sĩ, Đại Sĩ Vương. Ông được coi là vị vua của Ngạ Quỷ có khuôn mặt màu đỏ, khuôn mặt như đang bốc cháy. Đây cũng là vị thần nổi tiếng của Phật giáo, ai ai cũng biết đến.

Vị này có thân hình ốm yếu, miệng như bốc ra lửa, cổ họng thì nhỏ xíu. Lý do mà cơ thể như vậy là sự tham lam, keo kiệt, nghiệp ác của kiếp trước nên mới bị quả báo. Đây cũng chính là đặc điểm thân thể của ngạ quỷ (quỷ đói).

Quỷ vương sẽ cai trị tất cả Ngạ Quỷ, chính điều này người ta cho rằng vị này là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm. Còn đối với Đạo giáo sẽ gọi vị này là Phổ Độ Chơn Quân hay còn gọi là Ông Phổ Độ. Vào dịp Tiết Trung Nguyên, trước khi bái lạy tổ tiên, những người này thường bái Diện Nhiên Đại Sĩ.

Đa số mọi người đều tin rằng tháng 7 Âm Lịch những vong linh, linh hồn ở dương gian đều do vị này cai trị, nên tại đất nước Đài Loan có rất nhiều miến thờ ông để không bị quấy phá. Vị này ở dưới núi Ốc Tiêu, cai trị tất cả các loài quỷ ở cõi âm. Còn về hình tượng người ở mỗi nơi đều có sự thay đổi khác nhau. Nhưng đặc điểm đặc biệt nổi bật đó là răng nhọn hoắt, mắt to lồi, lưỡi cong dài trông rất kinh dị.

Một số sử sách Phật giáo được tìm thấy có ghi chép về nguồn gốc của Tiêu Diện Sĩ. Có câu chuyện kể rằng trong một đêm đang thực hành thiền định, lắng nghe lời Đức Phật dạy. Vị tôn giả A Nan có thấy một quỷ đói rất hung dữ và nó tên là Diệm Khẩu. Chính con quỷ đã đến trước mặt tôn giả và bảo rằng sau ba ngày nữa mạng sống ông sẽ hết và được sinh ra ở thế giới Ngạ Quỷ (quỷ đói).

Khi nghe điều này tôn giả lấy làm ngạc nhiên và sợ hãi, bèn hỏi chính con quỷ đó cách giải thoát ra khỏi tai ương . Nó trả lời lại rằng: “Vào sáng mai tôn giả nên cúng dường thức ăn và nước sạch cho trăm ngàn Ngạ Quỷ, cho vô số các vị đạo sĩ Bà La Môn, cho các vị chư thiên và cho các vị Thần đang trị vì, cho các vong linh, vì họ mà cúng dường Tam Bảo. Nhờ vậy mà tôn giả có thêm tăng thêm tuổi thọ, sẽ thoát khỏi cảnh bị đày vào đau khổ ở Ngạ Quỷ và sanh lên cõi Trời”.

Nghe thế, tôn giả làm theo lời dặn của quỷ đói đã thực hiện nghi thức hành trì và thiết cúng thí thực. Bởi nghi thức này là cho vong linh, cô hồn ở Ngạ Quỷ. Sau đó tôn giả cũng tai qua nạn khỏi, đúng như lời quỷ đói nói. Từ đó trở đi các nơi khi thực hiện nghi thức này cũng thường có thêm bàn thờ Tiêu diện đại sĩ xem như lời cảm ơn, tôn thờ và nhắc nhở lời người đã bảo.

Ý nghĩa của hình tượng tiêu diện đại sĩ

Ý nghĩa của hình tượng tiêu diện đại sĩ

 

Hình ảnh Ngạ quỷ (quỷ đói)

Tiêu diện đại sĩ là được biết đến là vị Bồ tát cứu độ chúng sanh và chuyên trừng trị những yêu quỷ. Đại sĩ luôn được miêu tả cụ thể như: dáng vẻ uy nghiêm, trang phục võ tướng, tay trái chống nạnh, tay phải cầm lá cờ, trên đầu có 3 cái sừng, hai mắt to lồi ngược ra ngoài, răng mọc lởm chởm, phun ra lửa từ miệng, lưỡi cong dài qua ngực, tổng thể gương mặt quái dị.

Theo như tương truyền lại, Tiêu diện đại sĩ chính là hình tượng khác của Bồ tát Quan Thế Âm. Một mặt là bồ tát Quan Thế Âm là người phụ nữ hiền lành, rất mực từ bi, mặc trang phục thanh tao, tay phải cầm bình cam lồ, tay trái dùng cành dương liễu rưới khắp nơi cứu khổ cho chúng sanh. Một mặt còn lại là Tiêu diện đại sĩ thì có gương mặt đáng sợ. Ở nơi của những thế lực hung ác, cõi ma quỷ.

Theo như có ghi chép có thể do sự hiền lành, từ bi không thể nhắc nhở, giúp đỡ chúng sanh khôn ngoan hơn và đi theo đường lối thiện lành. Chính vì thế bồ tát mới dùng tới tướng mạo hung ác, thống trị và cai trị những loài quỷ không làm những điều ác, siêng làm việc lành, tích thêm công đức, từ đó mà thoát ra khỏi con đường ác, sớm đi sinh ra trên cõi Trời. 

Sử sách còn có ghi thêm một câu chuyện, có lần Bồ tát Quan Thế Âm trên đường đi cứu độ, thì lại bị quỷ vương ngăn cản, xuất hiện trước bồ tát với tướng mạo răng nanh dài nhọn hoắt. Đối với quyền năng của Bồ tát Quan Thế Âm thì có thể đánh bại được quỷ vương nhanh chóng.

Nhưng, Bồ tát đã không ra tay mà lại biến hóa tướng mạo như vị quỷ vương kia. Điều này đã làm cho quỷ vương khiếp sợ, liền hóa phép đầu đội 3 ngọn núi. Bồ tát cũng hóa phép đội 3 ngọn núi to hơn. Quỷ vương thấy vậy đành lè lưỡi dài đến ngực. Bồ tát Quan Âm lại hơn thế lè lưỡi còn dài qua ngực.

Quỷ vương biết bản thân gặp phải đối thủ mạnh hơn, liền chịu thua, biến mất ngay sau đó. Cho nên khi thực hiện nghi lễ “xô giàn thí thực” trong lễ hội làm chay, cúng chùa, cúng chợ, trẻ sẽ cố tranh nhau lấy cho được lưỡi ông Tiêu.

Bởi vì lưỡi của ông Tiêu chính là một linh vật được dùng để may thành bùa, lót gối hoặc kê cổ để cho trẻ con được ngủ ngon và không bị những yêu quỷ chọc phá. Bởi chính quỷ vương còn sợ hãi trước tướng mạo khác của bồ tát, nói chi đến những yêu quỷ, tất cả đều không bằng oai phong của Tiêu diện đại sĩ.

Chiếc lưỡi chính là biểu tượng cho uy quyền của ông Tiêu. Trong thế giới của ngạ quỷ có vô vàn ma quỷ khác nhau. Với sự xuất hiện ở tướng mạo ông Tiêu hung dữ, đáng sợ sẽ xua đuổi đi ma quỷ, lúc đó ma quỷ sẽ cố gắng trốn đi bằng cách đi vào nơi có ánh sáng. Nơi đó chính là con đường cứu ma quỷ ra khỏi con đường ác báo, được cứu khổ.

Tại sao các ngôi chùa không thể thiếu tiêu diện đại sĩ?

Bàn thờ của Tiêu diện đại sĩ ở chùa

 

Bàn thờ của Tiêu diện đại sĩ ở chùa

Khi nhắc đến hình tượng của Ác Thần và Thiện Thần luôn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, chùa là để tấm lòng từ bi, nơi đến cái phật tử hướng đến con đường hiền lương, tâm ngay thẳng nên chỉ cần thờ tượng vi đà là đủ, cớ sao lại thờ thêm tượng tiêu diện đại sĩ. Điều này là sự thắc mắc rất lớn của những người theo Phật giáo và được giải thích như sau:

Dù chùa chiền là nơi phật tử hướng đến con đường thiện lành nhưng song song đó sẽ là thế giới bóng tối. Ở đó ma quỷ và những thế lực xấu sẽ ảnh hưởng đến con đường ta đi. Nếu chỉ có phật vi đà e rằng sẽ không thể dẹp tan được thế lực này. Bởi thế phải có tiêu diện đại sĩ với gương mặt oai phong và dữ tợn có thể xua đuổi đi ma quỷ. Đối thủ mạnh như ông Tiêu có thể dẹp tan ma quỷ ngay tức khắc. Khi đó chúng sẽ chạy tránh đi tới nơi có ánh sáng, nhờ đó mà được cứu rỗi quay về cuộc sống hiền lương.

Như đã nói, Bồ tát Quan Thế Âm chính là người dẫn đưa ma quỷ sớm được lên cõi Trời. Bởi người không muốn ma quỷ bước tiếp trên còn đường tạo nghiệp ác. Vì lòng đại từ bi nên vị bồ tát đã hiện thân là chính họ loài ngạ quỷ, đóng một vai hoàn toàn khác biệt so với một đấng trong sạch và từ bi. Để chính khi Bồ tát ở thân xác đó cảm hóa được những ma quỷ.

Việc xuất hiện cùng lúc hai hình tượng từ bi và dữ tợn trên bàn thờ ở các ngôi chùa ngày nay vẫn còn vì đó chính là cuộc sống đời thường thực tế ngày nay. Đó là có những người khi ta dùng những lời nói nhẹ nhàng, hiền lành, bao dung, cùng với cử chỉ đầy sự yêu thương sẽ có thể cảm hóa hoặc dạy dỗ được.

Nhưng cũng có những người khi dùng lời nói nhẹ nhàng và hành động hiền hòa sẽ không có tác dụng gì cả. Cụ thể hơn đó là những người ngang bướng, không nghe lời Phật khi nói lời hiền lành. Những người như này phải dùng thái độ dữ dằn và hành động trừng trị để dạy dỗ nên ngay thẳng. 

Trong các chùa Phật giáo ở Việt Nam theo phái Nam Tông và Khất Sỹ thường sẽ không thờ tượng hộ pháp vi đà. Tuy nhiên, ở các chùa Phật giáo Bắc Tông sẽ có thờ hai vị thần. Một vị để chỉ điều lành, một vị chỉ điều ác. Rõ hơn sẽ chia thành Thiện Thần và Ác thần.

Thiện Thần giúp đỡ cho chúng sanh sớm được Niết Bàn, dạy cho chúng sanh cách sống tăng tích đức. Ác thần chuyên trừng trị những người muốn phá hoại Phật giáo, phá hoại những người tu hành. Hai vị được đặt kế bên nhau trên bàn thờ.

Khi nói về việc thờ tượng thiện ác, Thượng tọa Thiên Đạo đã nói rằng: “Các chùa ngày nay đều thờ hai tượng nhưng trong sử sách Phật giáo chỉ nhắc đến vị hộ pháp vi đà. Việc thờ tượng Ác thần và Thiện Thần nhằm muốn thể hiện sự tồn tại của hai mặt đối lập Thiện và Ác trong cuộc sống của con người.

Đây cũng được coi là sự giáo dục cho con người, nhắc nhở ta ở hiền sẽ gặp lành. Ta không nên làm những điều ác, khiến người khác khổ đau, càng làm nhiều việc lành sẽ được vị Thiện Thần hộ trì, làm ác sẽ bị Ác Thần trừng trị thích đáng”.

Đức Phật cũng dạy ta rằng: “Không chỉ có những vị chư thiên mới giúp đỡ cho chúng sanh mà từ những vị vua quan cho đến người dân ở cõi Trần đều phải đùm bọc nhau. Ai có tâm càng lớn theo Phật Pháp (ý chỉ từ bỏ cái ác, phát triển theo hướng thiện) sẽ được sống trường thọ ở thế gian, làm lợi cho chúng sanh, tất cả đều được gọi chúng là hộ pháp”.

Hy vọng bài viết trên cung cấp nhiều thông tin về tiêu diện đại sĩ, trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những sai sót rất mong nhận được sự đóng góp của quý độc giả. Quý chủ đầu tư nào cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ cũng như các công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977 703 776 hoặc hòm thư điện tư thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian chuẩn tâm linh nhất.

ngày thăng long hoàng đạo

Ngày thanh long hoàng đạo là ngày nào?

Ngày Thanh Long Hoàng Đạo là ngày đẹp để cử hành những việc quan trọng, người ta sẽ chọn ngày này hàng tháng để tổ chức nhằm mang ý nghĩa mọi sự sau này sẽ diễn ra êm đẹp, không gặp nhiều trắc trở khó khăn. Như thế muốn xem Ngày Thanh Long Hoàng Đạo cần dựa vào ngày hoàng đạo âm lịch mà xác định. Dưới đây bài viết của thietkenhathoho.com sẽ giúp bạn chọn ngày Hoàng Đạo Thanh Long chính xác. 

Ngày Thanh Long Hoàng Đạo là gì?

<b>Ngày Thanh Long Hoàng Đạo </b> là gì?

 

Người ta chỉ biết đến Thanh Long là một vì sao tốt mà không thật sự biết được ý nghĩa sâu xa từ hai chữ Thanh Long xuất hiện từ những câu chuyện huyền thoại ngày xưa về con rồng xanh. Đây là một trong bốn hiện tượng con vật linh thiêng xuất hiện trên nhân gian được lưu truyền rộng rãi đến công chúng ngày nay là Thanh Long, Chu Tước, Bạch Hổ, Huyền Vũ.

Nói về vị trí gia chủ hợp với sao Thanh Long thì nên xây nhà hướng nằm bên trái. Theo như phong thủy xét kỹ hơn về không gian kiến trúc thì Thanh Long thuộc cung Chấn, phương Đông nằm ở hành Mộc, gia chủ thuộc cung tương hợp, tương sinh thì nên chọn vị trí tạo sao này để xây nhà.

Một trong những vì sao tốt phải kể tên đến sao Thanh Long. Người nào được sao Thanh Long chiếu mệnh trong bản tử vi thì sẽ gặp nhiều may mắn, thuận lợi trong cuộc sống, có duyên gặp nhiều người hiền quý giúp đỡ mình trên đường đời đầy trong gai, dẫn lối mình khỏi những cạm bẫy của cuộc sống. Bên cạnh đó, sao Thanh Long còn là một vì sao tốt về sự nghiệp hỗ trợ người được vì sao này chiếu thuận lợi trong con đường thăng quan tiến chức, đạt được nhiều mục tiêu trong cuộc sống.

 

Ngày xưa người ta chọn ngày đẹp để cử hành những ngày lễ long trọng bởi chọn ngày đẹp phải dựa vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Chọn ra một ngày đẹp tức phải có yếu tố trời đất hòa hợp, nguồn năng lượng từ mặt trời trong vũ trụ chiếu sáng và dồi dào nhất. Lúc này mọi thứ tinh hoa đẹp đẽ nhất của trời đất đều hội tụ lại một điểm, tuy nhiên chỉ có một ngày này trong một tháng. Mọi người nên chọn ngày này để cử hành lễ vì mọi phúc khí lúc này là nhiều nhất mang lại sự thuận lợi, may mắn về lâu về dài cả sau này.

Ý nghĩa Ngày Thanh Long Hoàng Đạo ?

Ý nghĩa <b>Ngày Thanh Long Hoàng Đạo </b>?

 

Ngày Thanh Long mang ý nghĩa những điều tốt đẹp trong cuộc sống, nhiều người còn quan niệm rằng ngày Thanh Long dùng để tổ chức những ngày trọng đại trong đời bởi Thanh Long tượng trưng cho tứ linh vật may mắn trong tử vi:

  1. Mọi sự bị thương, mất mát, xui xẻo gần như có sự chuyển biến 
  2. Ngày này là ngày vô cùng may mắn bởi lúc này trời đất hài hòa sản sinh ra luồng khí vượng mang lại nhiều lợi ích, thuận lợi cho con người.
  3. Cúng kiến ngày này thì sĩ tử đỗ đạt cao, ngày này còn đặc biệt chọn là ngày tiến cử nhiều vị trí quan trọng trong công ty, vinh danh những người làm việc lao động chăm chỉ suốt thời gian qua.
  4. Ngày này sinh con sẽ thường sinh quý tử, con cái ngoan ngoãn, hiếu thảo, thông minh.
  5. Ngày này còn được chọn là ngày thành lập công ty, giúp công ty phát triển thuận buồm xuôi gió, mọi sự khó khăn đều có thể vượt qua.
  6. Cúng ngày này để cầu an, mọi người trong nhà sẽ có nhiều sức khỏe, bình an, may mắn, mọi sự đều hanh thông.

Cách tính Ngày Thanh Long Hoàng Đạo

Cách tính <b>Ngày Thanh Long Hoàng Đạo </b>

 

Vào mỗi tháng trong năm sẽ có một Ngày Thanh Long Hoàng Đạo dựa trên lịch âm của người Việt mình, bạn xem ngày theo đúng tuổi của 12 con giáp đúng vào ngày Hoàng Đạo nào trong tháng đó thì sẽ tương ứng như sau đây:

Vào tháng 1: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Tý.

Vào tháng 2: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Dần.

Vào tháng 3: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Thìn.

Vào tháng 4: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Ngọ.

Vào tháng 5: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Thân.

Vào tháng 6: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Tuất.

Vào tháng 7: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Tý.

Vào tháng 8: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Dần.

Vào tháng 9: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Thìn.

Vào tháng 10: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Ngọ.

Vào tháng 11: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Thân.

Vào tháng 12: Ngày Thanh Long Hoàng Đạo sẽ nhằm vào ngày Tuất.

Dựa vào Ngày Thanh Long Hoàng Đạo trên thì những con giáp này đều thuộc chi Dương – Dương quý nhân những con giáp này chỉ tồn tại 12 ngày trong 1 tháng. Tuy nhiên chỉ có duy nhất 1 Ngày Thanh Long Hoàng Đạo Thanh Long trong tháng đó và lần lượt lập lại các con giáp thuộc chi Dương theo thứ tự từng tháng kế tiếp.

Ngày Thanh Long Hoàng Đạo tốt cho việc gì?

<b>Ngày Thanh Long Hoàng Đạo </b> tốt cho việc gì?

 

Trong phong thủy Ngày Thanh Long Hoàng Đạo được xem là ngày tốt để tổ chức những nghi lễ lớn hay là những ngày xuất hành hoặc mở cửa hàng kinh doanh,…Giúp cho chặng đường về sau lúc nào cũng tốt đẹp, suôn sẻ, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Một số những ngày thích hợp để chọn Ngày Thanh Long Hoàng Đạo có thể kể đến như:

  • Khai trương, động thổ, khởi công xây dựng công trình: Đây là ngày trọng đại, điều này đòi hỏi may mắn đến từ “vạn sự khởi đầu nan”, tức muốn chúc chủ nhân của doanh nghiệp kinh doanh đó, mọi sự làm ăn đều suôn sẻ, buôn may bán đắt, gặt hái được nhiều thành công trong lĩnh vực kinh doanh, đạt doanh thu cao trong nhiều tháng sắp tới.
  • Tổ chức đám cưới, đám hỏi: Hai bên gia đình gặp nhau, cùng nhau chúc phúc cho đôi trẻ bước vào một cuộc sống gia đình hạnh phúc viên mãn.
  • Thăng chức, nhận huy chương: Đây được đánh dấu là một sự thăng tiến trong sự nghiệp của một người, được xem là một ngày lễ công nhận những cố gắng thành quả của người đó trong một khoảng thời gian cố gắng miệt mài vươn lên trong cuộc sống.
  • Chọn là ngày mua đất, mua xe, đưa con vào trường đều mang ý nghĩa may mắn, mọi sự bình yên, thuận lợi.

Ngày Thanh Long Hoàng Đạo không tốt cho việc gì?

<b>Ngày Thanh Long Hoàng Đạo </b> không tốt cho việc gì?

 

Ngày Thanh Long Hoàng Đạo là ngày đẹp tức linh khí trời đất hội tụ vào ngày này là nhiều nhất, vì thế mà người ta luôn cử hành những ngày quan trọng vào ngày này nhằm tăng sự thịnh vượng. Tuy nhiên, ngày này là ngày tốt tránh làm những việc xấu như trừ tà, sát sinh, cúng cô hồn,…Dưới đây là một số việc làm tuyệt đối đừng làm vào Ngày Thanh Long Hoàng Đạo hàng tháng.

  • Đập phá đồ cũ, đem cho đồ cũ,…
  • Sát sanh động vật như dùng keo diệt chuột, bẫy chuột,…
  • Cử hành nghi thức trừ tà, đuổi ma trong ngày này.
  • Sản xuất các vật dụng săn bắn động vật
  • Thi hành án tử, kết tội, bắt tội phạm nguy hiểm

Ngày Thanh Long chỉ thích hợp làm những điều tốt đẹp, nếu không may làm những điều tiêu cực sẽ có tác dụng ngược làm cho mọi việc muốn làm đều không thành.

Nếu bạn cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian hoàn hảo nhất.

đế thích thiên là ai?

Đế thích thiên là ai ?

Đế thích thiên là vị đại chư thiên có nhiều oai phong và uy lực được những vị chư thiên khác và người phàm tôn kính, được xem là thiên vương của cõi trời Đao Lợi. Người là vị Thiên chủ nắm giữ quyền hành ở cõi trời Đao Lợi, chứ không phải là một vị Vua bình thường khác. Vậy để tìm hiểu rõ tại sao Người lại được gọi như vậy? Lý do tại sao Người được tôn kính, thì bài viết dưới đây của thietkenhathoho.com sẽ là bài viết để bạn tìm hiểu về Đế thích thiên.

Tiểu sử sơ lược về đế thích thiên

Tiểu sử sơ lược về đế thích thiên

Cõi trời Đao Lợi

Đế thích thiên chính là Thiên chủ của cõi trời Đao Lợi hay nơi đây cũng được gọi là Cõi trời Tam Thập Tam Thiên (Cõi trời ba mươi ba). Theo Phật Pháp đã ghi chép về câu chuyện rằng Người có tính giúp đỡ, làm việc tốt lành, làm việc bác ái. Ông cùng với 32 người bạn đã cùng nhau tu hành tăng công đức. Nhờ vậy khi còn sống mà 33 người đã có đầy đủ ơn phước, cho nên sau khi qua đời đã được lên cõi Trời Đao Lợi. Ông thì được làm Thiên Chủ, còn 32 người bạn của ông thành Phụ Thần. Do vậy nên mới có tên gọi cõi trời ba mươi ba hay còn gọi là cõi Tam thập Tam Thiên.

Theo đạo Bà la môn rất sùng bái Đế thích, coi ông như là vị thần của tầm sét. Còn Đạo Phật, Đế thích thiên chính là vua ở trên cõi Trời, sống ở cõi trời Đao Lợi, ở cõi Trời có tận 33 cảnh, thuộc Dục giới. Điều này cũng có nghĩa là những người ở đây đều chưa thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử trong 3 cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Cũng có sử sách chép rằng Indra là tên gọi khác của Đế thích hoàn nhân. Đến nay Phật giáo vẫn xem Đế thích là một chúng sanh, đương nhiên đây là một vị chúng sanh cao hơn loài người, sức mạnh và uy quyền lớn hơn rất nhiều.

Theo thứ tự từ dưới lên thì đây là tầng thứ hai của Dục Giới: Tứ Vương, Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc và Tha Hóa tự tại. Ngài cũng như là một vị chư thiên trời Đao Lợi: Người cao một dặm, áo thì nặng sáu thù, tuổi thọ thì đến 1000 tuổi. Chỉ một ngày dài ở nơi đây sẽ bằng tận 100 năm nơi cõi trần gian.

Người chính là Thiên chủ thống trị toàn bộ ở cõi Đao Lợi và Tứ Vương. Người có uy lực và nắm giữ quyền sinh tử ở chốn trần gian. Người có những trách nhiệm riêng và quyền năng người để canh giữ nơi cõi Trời này. Người không phải là Vua cờ Đế Thích mà ta nghe được trong chuyện cổ tích.

Tại sao người ta thường nói “Vua trời đế thích thiên”

Tại sao người ta thường nói “Vua trời đế thích thiên”

 

Vua trời đế thích luôn hầu cận Phật tổ

Vua trời đế thích thiên là vị được Nho gia suy tôn làm Ngọc Hoàng Thượng Đế. Còn Đạo gia suy tôn là Ngọc đế hay là Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn. Trong Phật Pháp thì thường gọi là Thiên chủ Tam thập Tam thiên, hay Đế thích, hay Đế thích hoàn nhân.

Thật ra Người cũng chính là một vị Vua, người có uy quyền, thống trị hết bốn vị Đại thiên vương. Ở nơi dương gian thì uy quyền của Ngọc Hoàng Thượng Đế vô cùng cao quý. Nhưng khi ta xem xét ở tam giới thì vẫn còn rất thấp. Vì ở nơi đây vẫn còn vô số vị Chư Thiên khác, cũng có quyền năng và oai lực lớn hơn gấp vạn lần.

Được gọi là “vua trời” bởi Đế thích đang thống trị cõi Đao Lợi và Tứ Vương. Người có uy quyền, cai trị chúng sanh trên cõi này. Người có quyền phán xét và giúp đỡ chúng sanh làm điều lành, sớm được chứng quả, lên cõi Trời cũng Đức Phật. Người không giống những vị Vua nơi dương gian, mà người có bổn phận đặc biệt hơn thế. Người là “Vua trời đế thích thiên” bởi người là Vua của cõi Đao Lợi.

Đế thích thiên có nhiệm vụ gì ?

Đế thích là người thống trị cả cõi trời Đao Lợi thì bên cạnh đó ông cũng phải có nhiệm vụ cao cả của mình. Ngài là người yêu thương và lo lắng cho chúng sanh, là người xem xét thiện ác nơi dương gian, thay mặt Đức Phật mà chăm lo cho chúng sanh. Ngoài ra ở tiền kiếp trước Đế thích cũng là người đã làm những việc lành, phẩm chất tốt. Từ đó mà gia đình và bạn bè đều noi gương theo chân người đến cõi Đao Lợi. Bởi vậy chúng sanh cũng hãy đi theo con đường bác ái, bố thí, ngay thẳng để sớm được đến bên Ngài.

Phán xét điều thiện ác nơi dương gian

Phán xét điều thiện ác nơi dương gian

 

Tượng của 4 vị thiên vương

Các vị Đế thích và Thiên vương sẽ cùng nhau lên Thiện pháp đường. Ở nơi đây có những chư tiên hầu cận xung quanh. Khi vào Thiện pháp đường, Người sẽ được ngồi trên tòa sư tử, ở mỗi bên tả hữu sẽ có 16 vị thiên vương. Các vị chư tiên đều phải được phân theo thứ cấp để ngồi đúng vị trí. Có 2 vị thái tử, một vị tên Chiên đàn, một vị tên Tutyla, đây cũng chính là hai vị Đại tướng của cõi trời Đao Lợi. Mỗi vị thái tử được chia đều hai bên tả hữu. Bên cạnh đó sẽ có bốn vị thiên vương chia nhau ngồi ở 4 cửa ra vào.

Đế thích hoàn nhân chính là người thống trị Thiên Quỷ ở tất cả các ngọn núi, thuộc nhóm núi Sumeru, bên cạnh Đế thích có 10 vị Đại Thiên Tử. Tầm nửa tháng, vào ngày lục trai thì Đế Thích ra lệnh cho bốn vị Thiên vương xem xét tình hình của chúng sanh dưới trần gian. Chính lúc đó bốn vị thiên vương sẽ mang những việc lành, việc ác ở trần gian mà bẩm báo lên Đế thích. Nếu có những tin ở thế gian có nhiều người tu tâm, giữ giới, yêu thương và chăm sóc cho ba mẹ, nghe lời bậc bề trên, siêng làm điều bác ái, tu hành tăng công đức, bố thí, làm điều ngay thẳng, chay tịnh,…

Điều này sẽ khiến Đế thích hạnh phúc và vui vẻ, vì biết rằng sẽ có nhiều chúng sinh được lên cõi trời, ít người sẽ bị đọa vào 3 đường ác. Nếu trái lại với những lời bẩm báo trên, Đế thích sẽ liền đau buồn, không vui. Bởi vì người biết rằng những người càng lười biếng, không tăng công đức sẽ bị giảm thọ, hậu quả khôn lường cho bản thân họ. Chính những người đó không thể thấy tương lai của mình nhưng Đế thích sẽ đã trông thấy rõ điều đó. Sớm muộn sẽ bị đọa vào đường ác.

Làm gương sáng cho chúng sanh ở trần gian noi theo

Làm gương sáng cho chúng sanh ở trần gian noi theo

 

Làm gương cho chúng sanh đời đời noi theo

Trong kiếp làm người phàm ở dương gian, Đế thích thiên đã có nhiều phẩm chất cao quý và thường làm những hành động bác ái, làm điều ngay thẳng và đã tạo dựng nếu công đức cứu bản thân khỏi vòng luân hồi. Chính nhờ nỗ lực của Ngài mà đã trở thành Thiên chỉ của cõi trời Đao Lợi. Ở kiếp đó Ngài cũng những người bạn của mình đã đi con đường tạo dựng ơn phước cho bản thân. Bằng hành động giúp những người cơ nhỡ, khó khăn, vô gia cư, bệnh tật, và vô số điều bác ái khác. Bệnh cạnh đó Ngài cũng là một người nhẫn nại, thông qua việc dù có người khác chiếm đoạt và đuổi đi nơi khác nhưng Ngài vẫn vui vẻ nhường chỗ cho họ.

Còn những người vợ của Đế Thích ở tiền kiếp cũng cố gắng tìm cách để tăng công đức, làm việc tạo ơn phước ngoại trừ cô vợ út. Cô vợ này chỉ có chăm chút cho vẻ ngoài, nhan sắc của mình mà không làm những hành động mang lại công đức. Chính vì vậy mà làm công đức không tăng mà còn bị mất đi, tự hại bản thân. Tất cả những người bạn và những người vợ khác của ông đều được tái sinh lên cõi Đao Lợi cùng Ngài. Còn cô vợ út tái sinh làm một con cò ở trong hang núi.

Cũng vì thương cho vợ của mình mà Đế thích cũng đã giúp cho vợ út tái sanh lên cõi trời đoàn tụ cùng mọi người bằng cách nhắc nhở giữ gìn ngũ giới. Chính gia đình và bạn bè đã noi theo gương Ngài để sống thiện lành, phẩm chất cao quý, ngay thẳng. Hậu quả khôn lường nếu không sống chăm tích công đức sẽ là sống đời khổ cực, nghiệp ác kiếp sau. Sống ở đời phải siêng năng làm chuyện lành để giảm bớt nghiệp ác, gia tăng điều lành bằng việc học hỏi Thập thiện lành. Sống càng lười biếng, làm điều gian ác, nói dối, cư xử tệ bạc sớm muộn khi đầu thai cũng bị đọa vào 3 đường ác.

Đế thích thiên và Phật tổ Như Lai ai có vị thế cao hơn

Đế thích thiên và Phật tổ Như Lai ai có vị thế cao hơn

 

Phật tổ Như Lai

Người phàm nơi dương gian luôn cho rằng chư thiên là cao quý nhất, không ai sánh bằng. Còn đối với Đức Phật, chư tiên cũng là chúng sanh, chưa thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Cũng chính vì điều đó mà khi Phật tổ Như Lai giảng dạy thì vô vàn thiên vương và vị Đế Thích cũng đến để tôn kính, thực hiện nghi lễ, lắng nghe những mầu nhiệm.

Theo sử sách Phật pháp ghi chép, Phật tổ Như Lai cũng từng là người phàm như chúng ta và đã thành lập ra Phật giáo. Ngài có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo phiên dịch qua từng nước. Như Lai là cái tên dùng để chỉ vị Thánh nhân đạt được bậc giải thoát cao nhất, đỉnh cao nhất không ai sánh bằng. Ta cần nên biết rằng Phật tổ Như Lai và Phật Thích Ca Mâu Ni là một người, chỉ là tên gọi khác.

Hình tượng Phật tổ được khắc thành những bức tượng và được vẽ thành nhiều bức tranh khác nhau. Những bức tượng làm bằng đồng được trưng bày để thờ cúng ở nhiều nơi. Không chỉ có gần đây mà đã có từ hàng triệu năm về trước. Người vốn sinh ra là một thái tử ở một vương quốc nhưng từ bỏ để tu hành, sáng lập ra Phật giáo. Chính người đã truyền bá cho con người nơi dương gian, từ đó giúp họ thoát khỏi vòng đau khổ sinh tử. Những lời Phật tổ giảng dạy đã giúp chúng sanh sáng mắt, hướng đến điều thiện lành. Cho đến nay, những bài giảng của Phật tổ Như Lai vẫn còn nguyên vẹn và giúp đỡ cho chúng sanh đi đến con đường Niết Bàn.

Bởi ta có thể thấy rằng vị thế của Phật tổ Như Lai cao hơn Đế thích, không bởi vì chức vụ cao thấp mà là hành động vĩ đại. Phật tổ chính là Người đã mở ra con đường lớn cho chúng sanh nhận thức đau khổ ở dương gian. Cũng có thể cho rằng nhờ sự truyền bá của Phật tổ đã khiến Đế thích thiên thức tỉnh mà đi theo con đường lên cõi Trời. Cho đến nay Đức Phật vẫn cho rằng Đế Thích vẫn được coi là chúng sanh nhưng vì công đức bản thân nên được ban cho ân huệ là Vua cõi Đao Lợi hay còn gọi là Vua trời Đế thích thiên.

kinh pháp cú

Kinh pháp cú là gì? Kinh Pháp cú có tác dụng gì?

Bài viết này của thietkenhathoho.com sẽ giới thiệu đến mọi người Kinh Pháp cú – bộ kinh này được xem là những lời dạy, câu kệ hay nhất mà Đức Phật để lại cho chúng sinh nhiều đời sau. Đây chỉ là những câu nói lời dạy ngắn gọn nhưng lại chứa đầy tinh hoa của những cuộc đời. 

Kinh pháp cú là gì?

Kinh pháp cú là gì?

Kinh Pháp Cú là những lời vàng mà Đức Phật dạy bảo chúng sinh sống theo chân lý

Tùy theo bản dịch của các nhà thiền sư hay nhà sử học khác nhau, Kinh Pháp Cú hoặc Kinh Lời Vàng hoặc Lời Phật Dạy là một trong số 15 quyển kinh bộ kinh trong Kinh Tạng Pali. Có thể nói quyển kinh này là quyển kinh Phật được lưu truyền phổ biến và nổi tiếng nhất trên thế giới, được các thiền sư từ các đất nước khác nhau dịch về tiếng mẹ đẻ của họ. Theo đó, ta có thể dịch nôm na ý nghĩa của tựa đề bộ kinh này là: Pháp có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời của đức Phật, Cú có nghĩa là lời nói hay câu câu kệ. Vì thế Pháp Cú có nghĩa là lời nói của Đức Phật. 

Nguồn gốc của kinh pháp cú

Nguồn gốc của kinh pháp cú

 

Kinh Pháp Cú là những câu nói do chính Đức Phật nói ra trong những năm còn tại thế của ngài

Kinh Pháp Cú là một quyển kinh của nhà Phật đã được lưu truyền từ rất lâu, cách đây khoảng 2500 năm. Có thể xem đây là bộ kinh cổ xưa nhất tập hợp những lời dạy ngắn gọn nhưng chứa đầy tinh hoa của Đức Phật Thích Ca trong ba trăm trường hợp giáo hóa khác nhau. Những câu này chính là những lời nói do chính Đức Phật khi còn tại thế dạy bảo các Phật tử hay chúng sinh trong suốt gần nửa thế kỷ thuyết pháp của Ngài. Trong những năm tháng thuyết pháp ấy, Đức Phật dạy bảo chúng sinh qua lời nói và được truyền miệng đi chứ Ngài không viết sách. 

Cho đến tận ba tháng sau khi Đức Phật nhập vào cõi Niết Bàn thì các vị đại đệ tử của Ngài mới tập hợp lại. Họ bắt đầu cố gắng tổng hợp và ghi chép lại tất cả những giáo pháp mà Đức Phật từng thuyết giáo để có tư liệu cho con cháu mai sau. Chúng sinh sau này đều có thể được nghe hay đọc lại tư tưởng của Ngài. Tất cả các lời nói của Đức Phật được các vị đại đệ tử sắp xếp thành 423 bài “kệ”, chia ra làm 26 “phẩm” hoàn toàn giống với bộ kinh hiện nay đang lưu truyền muôn đời. Có thể thấy, tư tưởng của Ngài vẫn luôn còn nguyên giá trị và thấm đẫm chân lý cuộc đời.

Ý nghĩa của kinh pháp cú

Ý nghĩa của kinh pháp cú

 

Kinh Pháp Cú là một trong những văn tự cổ xưa nhất của Đạo Phật, lưu giữ tinh hoa của phẩm chất nhà Phật

Những lời giảng giải của Đức Phật được tổng hợp lại trong Kinh Pháp Cú luôn cho thấy sự giản dị và dễ hiểu khi giải thích các chân lý của Đạo Phật. Dù là ai chúng ta cũng có thể dễ dàng hiểu được nội dung muốn truyền tài của nó, và giúp ích cho sự tu tập hàng ngày nhờ những câu kệ tuyệt diệu này. Cũng chính Đức Phật đã từng nhấn mạnh rằng Ngài chỉ là người dẫn đường, chỉ ra và định hướng lại những tư tưởng sai lầm cho chúng sinh chứ Ngài không thể “cứu rỗi” hay tu đạo thay cho bất kỳ ai được cả. Vì thế mà con người cần phải tự mình tu hành thì mới có thể giải thoát cho chính mình được.

Mong rằng với những lời dạy tuyệt diệu của Ngài sẽ là một ngọn hải đăng trên biển hay như ngọn đuốc rực rỡ chiếu sáng đêm đen cho mọi chúng sinh trên thế gián. Kinh Pháp Cú sẽ là ngón tay chỉ hướng cho mọi hành vi, suy nghĩ hay tư duy của người đọc để đem lại an lạc và hạnh phúc cho chính mình. Chúng sinh tu hành theo Phật dạy, tự giác ngộ cái sai cái đúng để mà sửa sai thì sự giác ngộ đó sẽ giúp cho họ được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử đầy khổ đau.

Mỗi một bài kệ trong Kinh Pháp Cú đều là những lời giảng giải thâu tóm những tinh hoa giáo lý mà Đức Phật muốn truyền tải. Mỗi lời nói đều chứa đựng một cách ngắn gọn, súc tích nhưng không hề thiếu sự thấu đáo thế gian của Ngài. Kinh Pháp bao gồm 423 bài kệ được chia rõ ràng thành 26 phẩm. Mỗi một phẩm đều nói trọng tâm về một vấn đề chính trong cuộc sống của con người. Chứa đựng những lý giải sâu sắc nhất về mọi sự vật hiện tượng sẽ diễn ra trong cuộc đời của một người. 

Một số bản dịch của Kinh Pháp Cú

Kinh Pháp Cú khi được lưu truyền đến Việt Nam thì được vô số các tín đồ Phật giáo quan tâm. Trong đó, có rất nhiều các vị thiền sư, cao tăng đã tận tâm dịch lại sang tiếng Việt để mọi chúng sinh đều có thể được thừa hưởng những lời dạy tuyệt diệu này của Đức Phật. Trong đó có một số bản dịch nổi tiếng và sát nghĩa nhất dưới đây.

Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Bản dịch Kinh Pháp Cú nổi tiếng nhất tại Việt Nam phải kể đến bản dịch của Trưởng lão Hòa Thượng Thích Thiện Siêu. Bản dịch này được nhà xuất bản Phú Lâu Na ấn bản tại Hoa Kỳ Phật lịch 2546 – năm 2002. Hiện nay, quyển kinh này được Nhà xuất bản Hồng Đức cấp giấy phép xuất bản, với hình thức in ấn đẹp, là tài liệu cần thiết cho người học Phật và muốn tìm hiểu căn bản về tinh hoa giáo lý mà Đức Phật đã thuyết giảng hơn hai ngàn năm trăm năm trước.

Kinh Lời Vàng Dhammapada của Hòa Thượng Thích Minh Châu

Nổi tiếng không kém bản dịch của Trưởng lão Thích Thiện Siêu, bản dịch Kinh Lời Vàng Dhammapada của Hòa Thượng Thích Minh Châu cũng là một trong số những văn kệ được giới đánh giá cao. Khi dịch lại quyển kinh này, Hòa Thượng Thích Minh Châu đã có những chia sẻ cảm động: “Chúng tôi cho dịch theo thể kệ năm chữ một, để thật trung thành với nguyên văn, và quý vị sẽ thấy rõ sự cố gắng của chúng tôi, đã dịch hết sức sát với nguyên văn, và nhiều bài kệ có thể xem không thêm, không bớt, một chữ Pali chúng tôi cũng cố gắng tôn trọng đến mức tối đa. Vì đây là thể kệ chứ không phải là thể thơ nên không có thi hóa trong bản dịch của tôi”. 

Bản dịch của các Ni sinh thuộc thiền viện Viên Chiếu

Bên cạnh hai bản dịch vô cùng phổ biến kể trên thì các Ni sinh đến từ thiền viện Viên Chiếu cũng đã dịch lại quyển Kinh Pháp Cú nổi tiếng trong giới Đạo Phật này. Trong đó, các Ni đã lựa chọn dịch theo bản chữ Anh của học giả Eugène Valson Buxlingame. Còn nhà học giả này đã dựa trên nguyên tác Pháp Cú sơ giải bằng tiếng Pali, do nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1999, để dịch lại. Điểm đặc biệt của bản dịch này đó là sau mỗi câu Kinh các Ni đều nêu rõ điểm xuất xứ Phật dạy và có kèm theo sau đó là một mẩu chuyện, nêu rõ lý do mà Phật nói ra câu Kinh đó.

Bản dịch Lời phật dạy của luật sư Đinh Sĩ Trang

Có một bản dịch được khá ít người biết đến đó là bản dịch Lời Phật Dạy của luật Đinh Sĩ Trang. Bản dịch này cũng là dịch sang tiếng Việt của quyển Kinh Pháp Cú được ấn hành tại Úc năm 1997. Có lẽ vì lí do đó mà khá ít người Việt Nam biết đến bản dịch này.

145 bài trong tổng 423 bài kệ Kinh Pháp Cú

Dưới đây là 145 bài kệ nằm trong 10 Phẩm đầu trên tổng số 423 bài kệ của quyển Kinh Pháp Cú do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch lại. Cùng với một số hình ảnh mô phỏng các lời dạy đầu tiên trong mỗi phẩm được Họa sĩ Mr. P. Wickramanayaka vẽ và thể hiện để độc giả có thể tham khảo.

Phẩm song yếu

Phẩm song yếu

 

  1. Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,

Khổ não bước theo sau,

Như xe, chân vật kéo.

  1. Ý dẫn đầu các pháp,

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý thanh tịnh,

Nói lên hay hành động,

An lạc bước theo sau,

Như bóng, không rời hình.

  1. Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi

Ai ôm hiềm hận ấy,

Hận thù không thể nguôi.

  1. Với hận diệt hận thù,

Ðời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

Là định luật ngàn thu.

  1. Và người khác không biết,

Chúng ta đây bị hại.

Chỗ ấy, ai hiểu được

Tranh luận được lắng êm.

  1. Ai sống nhìn tịnh tướng,

Không hộ trì các căn,

ăn uống thiếu tiết độ,

biếng nhác, chẳng tinh cần.

Ma uy hiếp kẻ ấy,

như cây yếu trước gió.

  1. Ai sống quán bất tịnh,

Khéo hộ trì các căn,

ăn uống có tiết độ,

Có lòng tin, tinh cần,

Ma không uy hiếp được,

Như núi đá, trước gió.

  1. Ai mặc áo cà sa. (Áo màu vàng, chỉ bậc xuất gia)

tâm chưa rời uế trược,

không tự chế, không thực,

không xứng áo cà sa

  1. Ai rời bỏ uế trược,

giới luật khéo nghiêm trì,

tự chế, sống chân thực,

thật xứng áo cà sa.

  1. Không chân, tưởng chân thật,

chân thật, thấy không chân:

chúng không đạt chân thật,

do tà tư, tà hạnh.

  1. Chân thật, biết chân thật,

Không chân, biết không chân:

chúng đạt được chân thật,

do chánh tư, chánh hạnh.

  1. Như mái nhà vụng lợp,

Mưa liền xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm không tu,

Tham dục liền xâm nhập.

  1. Như ngôi nhà khéo lợp,

Mưa không xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm khéo tu,

Tham dục không xâm nhập.

  1. Nay sầu, đời sau sầu,

Kẻ ác, hai đời sầu;

Nó sầu, nó ưu não,

Thấy nghiệp uế mình làm.

  1. Nay vui, đời sau vui,

Làm phước, hai đời vui,

Nó vui, nó an vui,

Thấy nghiệp tịnh mình làm.

  1. Nay than, đời sau than,

Kẻ ác, hai đời than,

Nó than: ‘Ta làm ác’

Ðọa cõi dữ, than hơn.

  1. Nay sướng, đời sau sướng,

Làm phước, hai đời sướng.

Nó sướng: ‘Ta làm thiện’,

Sanh cõi lành, sướng hơn.

  1. Nếu người nói nhiều kinh,

Không hành trì, phóng dật;

Như kẻ chăn bò người,

Không phần Sa môn hạnh.

  1. Dầu nói ít kinh điển,

Nhưng hành pháp, tùy pháp,

Từ bỏ tham, sân, si,

Tĩnh giác, tâm giải thoát,

Không chấp thủ hai đời,

Dự phần Sa môn hạnh.

Phẩm Không Phóng Dật

Phẩm Không Phóng Dật

 

  1. Không phóng dật, đường sống,

Phóng dật là đường chết.

Không phóng dật, không chết,

Phóng dật như chết rồi.

  1. Biết rõ sai biệt ấy,

Người trí không phóng dật,

Hoan hỷ, không phóng dật,

An vui hạnh bậc Thánh.

  1. Người hằng tu thiền định,

Thường kiên trì tinh tấn.

Bậc trí hưởng Niết Bàn,

Ðạt an tịnh vô thượng.

  1. Nỗ lực, giữ chánh niệm,

Tịnh hạnh, hành thận trọng

Tự điều, sống theo pháp,

Ai sống không phóng dật,

Tiếng lành ngày tăng trưởng.

  1. Nỗ lực, không phóng dật,

Tự điều, khéo chế ngự.

Bậc trí xây hòn đảo,

Nước lụt khó ngập tràn.

  1. Chúng ngu si, thiếu trí,

Chuyên sống đời phóng dật.

Người trí, không phóng dật,

Như giữ tài sản quý.

  1. Chớ sống đời phóng dật,

Chớ mê say dục lạc.

Không phóng dật, thiền định,

Ðạt được an lạc lớn.

  1. Người trí dẹp phóng dật,

Với hạnh không phóng dật,

Leo lầu cao trí tuệ,

Không sầu, nhìn khổ sầu,

Bậc trí đứng núi cao,

Nhìn kẻ ngu, đất bằng.

  1. Tinh cần giữa phóng dật,

Tỉnh thức giữa quần mê.

Người trí như ngựa phi,

Bỏ sau con ngựa hèn.

  1. Ðế Thích không phóng dật, (Ðế Thích: Magha (Manavaka), vị lãnh đạo chư Thiên)

Ðạt ngôi vị Thiên chủ.

Không phóng dật, được khen ;

Phóng dật, thường bị trách.

  1. Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Bước tới như lửa hừng,

Thiêu kiết sử lớn nhỏ.

  1. Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Không thể bị thối đọa,

Nhất định gần Niết Bàn.

Phẩm Tâm

Phẩm Tâm

 

  1. Tâm hoảng hốt giao động,

Khó hộ trì, khó nhiếp,

Người trí làm tâm thẳng,

Như thợ tên, làm tên.

  1. Như cá quăng lên bờ,

Vất ra ngoài thủy giới;

Tâm này vùng vẫy mạnh,

Hãy đoạn thế lực Ma.

  1. Khó nắm giữ, khinh động,

Theo các dục quay cuồng.

Lành thay, điều phục tâm;

Tâm điều, an lạc đến.

  1. Tâm khó thấy, tế nhị,

Theo các dục quay cuồng.

Người trí phòng hộ tâm,

Tâm hộ, an lạc đến.

  1. Chạy xa, sống một mình,

Không thân, ẩn hang sâu (Trú xứ của Thức)

Ai điều phục được tâm,

Thoát khỏi Ma trói buộc. (Bao gồm: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới)

  1. Ai tâm không an trú,

Không biết chân diệu pháp,

Tịnh tín bị rúng động,

Trí tuệ không viên thành.

  1. Tâm không đầy tràn dục,

Tâm không (hận) công phá,

Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,

Kẻ tỉnh không sợ hãi.

  1. Biết thân như đồ gốm,

Trú tâm như thành trì,

Chống Ma với gươm trí ;

Giữ chiến thắng không tham

  1. Không bao lâu thân này,

Sẽ nằm dài trên đất,

Bị vất bỏ, vô thức,

Như khúc cây vô dụng.

  1. Kẻ thù hại kẻ thù,

Oan gia hại oan gia,

Không bằng tâm hướng tà, (Ý chỉ hướng về 10 pháp bất thiện như sát sanh v.v…)

Gây ác cho tự thân.

  1. Ðiều mẹ cha bà con,

Không có thể làm được,

Tâm hướng chánh làm được

Làm được tốt đẹp hơn.

Phẩm Hoa

 

 

  1. “Ai chinh phục đất này

Dạ ma, Thiên giới này?

Ai khéo giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa?”

  1. “Hữu học chinh phục đất,

Dạ ma, Thiên giới này.

Hữu học giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa.”

  1. “Biết thân như bọt nước,

Ngộ thân là như huyễn,

Bẻ tên hoa của ma,

Vượt tầm mắt thần chết.”

  1. “Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say, tham nhiễm,

Bị thần chết mang đi,

Như lụt trôi làng ngủ.”

48. Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say tham nhiễm,

Các dục chưa thỏa mãn,

Ðã bị chết chinh phục.”

  1. “Như ong đến với hoa,

Không hại sắc và hương,

Che chở hoa, lấy nhụy.

Bậc Thánh đi vào làng “.

  1. “Không nên nhìn lỗi người,

Người làm hay không làm.

Nên nhìn tự chính mình.

Có làm hay không làm.”

  1. “Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc nhưng không hương.

Cũng vậy, lời khéo nói,

Không làm, không kết quả.”

  1. “Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc lại thêm hương;

Cũng vậy, lời khéo nói,

Có làm, có kết quả.”

  1. “Như từ một đống hoa,

Nhiều tràng hoa được làm.

Cũng vậy, thân sanh tử,

Phải làm nhiều việc lành.”

  1. “Hương các loại hoa thơm

Không ngược bay chiều gió

Nhưng hương người đức hạnh

Ngược gió khắp tung bay

Chỉ có bậc chân nhân

Tỏa khắp mọi phương trời.”

  1. “Hoa chiên đàn, già la,

Hoa sen, hoa vũ quý,

Giữa những hương hoa ấy,

Giới hương là vô thượng.”

  1. “Ít giá trị hương này,

Hương già la, chiên đàn;

Chỉ hương người đức hạnh,

Tối thượng tỏa Thiên giới.”

  1. “Nhưng ai có giới hạnh,

An trú không phóng dật,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Ác ma không thấy đường.”

  1. “Như giữa đống rác nhớp,

Quăng bỏ trên đường lớn,

Chỗ ấy hoa sen nở,

Thơm sạch, đẹp ý người.”

  1. “Cũng vậy giữa quần sanh,

Uế nhiễm, mù, phàm tục,

Ðệ tử bậc Chánh Giác,

Sáng ngời với Tuệ Trí.”

Phẩm Ngu

 

 

  1. “Ðêm dài cho kẻ thức,

Ðường dài cho kẻ mệt,

Luân hồi dài, kẻ ngu,

Không biết chơn diệu pháp.”

  1. “Tìm không được bạn đường,

Hơn mình hay bằng mình,

Thà quyết sống một mình,

Không bè bạn kẻ ngu.”

  1. “Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu sanh ưu não,

Tự ta, ta không có,

Con đâu, tài sản đâu.”

  1. “Người ngu nghĩ mình ngu,

Nhờ vậy thành có trí.

Người ngu tưởng có trí,

Thật xứng gọi chí ngu.”

  1. “Người ngu, dầu trọn đời,

Thân cận người có trí,

Không biết được Chánh pháp,

Như muỗng với vị canh.”

  1. “Người trí, dầu một khắc,

Thân cận người có trí,

Biết ngay chân diệu pháp,

Như lưỡi với vị canh.”

  1. “Người ngu si thiếu trí,

Tự ngã thành kẻ thù.

Làm các nghiệp không thiện,

Phải chịu quả đắng cay.”

  1. “Nghiệp làm không chánh thiện,

Làm rồi sanh ăn năn,

Mặt nhuốm lệ, khóc than,

Lãnh chịu quả dị thục.”

  1. “Và nghiệp làm chánh thiện,

Làm rồi không ăn năn,

Hoan hỷ, ý đẹp lòng,

Hưởng thọ quả dị thục.”

  1. “Người ngu nghĩ là ngọt,

Khi ác chưa chín muồi;

Ác nghiệp chín muồi rồi,

Người ngu chịu khổ đau.”

  1. “Tháng tháng với ngọn cỏ,

Người ngu có ăn uống

Không bằng phần mười sáu

Người hiểu pháp hữu vi.”

  1. “Nghiệp ác đã được làm,

Như sữa, không đông ngay,

Cháy ngầm theo kẻ ngu,

Như lửa tro che đậy.”

  1. “Tự nó chịu bất hạnh,

Khi danh đến kẻ ngu.

Vận may bị tổn hại,

Ðầu nó bị nát tan.”

  1. “Ưa danh không tương xứng,

Muốn ngồi trước tỷ kheo,

Ưa quyền tại tịnh xá,

Muốn mọi người lễ kính.”

  1. “Mong cả hai tăng, tục,

Nghĩ rằng (chính ta làm).

Trong mọi việc lớn nhỏ,

Phải theo mệnh lệnh ta ”

Người ngu nghĩ như vậy

Dục và mạn tăng trưởng.

  1. “Khác thay duyên thế lợi,

Khác thay đường Niết Bàn.

Tỷ kheo, đệ tử Phật,

Hãy như vậy thắng tri.

Chớ ưa thích cung kính,

Hãy tu hạnh viễn ly.”

Phẩm Hiền Trí

  1. “Nếu thấy bậc hiền trí,

Chỉ lỗi và khiển trách,

Như chỉ chỗ chôn vàng

Hãy thân cận người trí!

Thân cận người như vậy,

Chỉ tốt hơn, không xấu.”

  1. “Những người hay khuyên dạy,

Ngăn người khác làm ác,

Ðược người hiền kính yêu,

Bị người ác không thích.”

  1. “Chớ thân với bạn ác,

Chớ thân kẻ tiểu nhân.

Hãy thân người bạn lành,

Hãy thân bậc thượng nhân.”

  1. “Pháp hỷ đem an lạc,

Với tâm tư thuần tịnh;

Người trí thường hoan hỷ,

Với pháp bậc Thánh thuyết.”

  1. “Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn gỗ,

Bậc trí nhiếp tự thân.”

  1. “Như đá tảng kiên cố,

Không gió nào giao động,

Cũng vậy, giữa khen chê,

Người trí không giao động.”

  1. “Như hồ nước sâu thẳm,

Trong sáng, không khuấy đục,

Cũng vậy, nghe chánh pháp,

Người trí hưởng tịnh lạc.”

  1. “Người hiền bỏ tất cả,

Người lành không bàn dục,

Dầu cảm thọ lạc khổ,

Bậc trí không vui buồn.”

  1. “Không vì mình, vì người.

Không cầu được con cái,

Không tài sản quốc độ,

Không cầu mình thành tựu,

Với việc làm phi pháp.

Vị ấy thật trì giới,

Có trí tuệ, đúng pháp.”

  1. “Ít người giữa nhân loại,

Ðến được bờ bên kia

Còn số người còn lại,

Xuôi ngược chạy bờ này.”

  1. “Những ai hành trì pháp,

Theo chánh pháp khéo dạy,

Sẽ đến bờ bên kia,

Vượt ma lực khó thoát.”

87.Kẻ trí bỏ pháp đen,

Tu tập theo pháp trắng.

Bỏ nhà, sống không nhà,

Sống viễn ly khổ lạc.”

  1. “Hãy cầu vui Niết Bàn,

Bỏ dục, không sở hữu,

Kẻ trí tự rửa sạch,

Cấu uế từ nội tâm.”

  1. “Những ai với chánh tâm,

Khéo tu tập giác chi,

Từ bỏ mọi ái nhiễm,

Hoan hỷ không chấp thủ.

Không lậu hoặc, sáng chói,

Sống tịch tịnh ở đời.”

Phẩm A La Hán

  1. “Ðích đã đến, không sầu,

Giải thoát ngoài tất cả,

Ðoạn trừ mọi buộc ràng,

Vị ấy không nhiệt não.”

  1. “Tự sách tấn, chánh niệm,

Không thích cư xá nào,

Như ngỗng trời rời ao,

Bỏ sau mọi trú ẩn.”

  1. “Tài sản không chất chứa,

Ăn uống biết liễu tri,

Tự tại trong hành xứ,

“Không vô tướng, giải thoát, ”

Như chim giữa hư không,

Hướng chúng đi khó tìm.”

  1. “Ai lậu hoặc đoạn sạch,

Ăn uống không tham đắm,

Tự tại trong hành xứ,

“Không, vô tướng giải thoát. ”

Như chim giữa hư không,

Dấu chân thật khó tìm. ”

  1. “Ai nhiếp phục các căn,

Như đánh xe điều ngự,

Mạn trừ, lậu hoặc dứt,

Người vậy, Chư Thiên mến.”

  1. “Như đất, không hiềm hận,

Như cột trụ, kiên trì,

Như hồ, không bùn nhơ,

Không luân hồi, vị ấy.”

  1. “Người tâm ý an tịnh,

Lời an, nghiệp cũng an,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Tịnh lạc là vị ấy.”

  1. “Không tin, hiểu vô vi.

Người cắt mọi hệ lụy

Cơ hội tận, xả ly

Vị ấy thật tối thượng.”

  1. “Làng mạc hay rừng núi

Thung lũng hay đồi cao,

La Hán trú chỗ nào,

Ðất ấy thật khả ái “.

  1. “Khả ái thay núi rừng,

Chỗ người phàm không ưa,

Vị ly tham ưa thích,

Vì không tìm dục lạc.”

Phẩm Ngàn

  1. “Dầu nói ngàn ngàn lời,

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu nghĩa,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

  1. “Dầu nói ngàn câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn nói một câu,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

102 “Dầu nói trăm câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu pháp,

Nghe xong, được tịnh lạc.”

  1. “Dầu tại bãi chiến trường

Thắng ngàn ngàn quân địch,

Tự thắng mình tốt hơn,

Thật chiến thắng tối thượng.”

  1. “Tự thắng, tốt đẹp hơn,

Hơn chiến thắng người khác.

Người khéo điều phục mình,

Thường sống tự chế ngự.”

  1. “Dầu Thiên Thần, Thát Bà,

Dầu Ma vương, Phạm Thiên

Không ai chiến thắng nổi,

Người tự thắng như vậy.”

  1. “Tháng tháng bỏ ngàn vàng,

Tế tự cả trăm năm,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cùng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự.”

  1. “Dầu trải một trăm năm,

Thờ lửa tại rừng sâu,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cúng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự.”

  1. “Suốt năm cúng tế vật,

Ðể cầu phước ở đời.

Không bằng một phần tư

Kính lễ bậc chánh trực.”

  1. “Thường tôn trọng, kính lễ

Bậc kỳ lão trưởng thượng,

Bốn pháp được tăng trưởng:

Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.”

110. Dầu sống một trăm năm

Ác giới, không thiền định,

Tốt hơn sống một ngày,

Trì giới, tu thiền định.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Ác tuệ, không thiền định.

Tốt hơn sống một ngày,

Có tuệ, tu thiền định.”

112 “Ai sống một trăm năm,

Lười nhác không tinh tấn,

Tốt hơn sống một ngày

Tinh tấn tận sức mình.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp sinh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sinh diệt.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy câu bất tử,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được câu bất tử.”

  1. “Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp tối thượng,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp tối thượng.”

Phẩm Ác

  1. “Hãy gấp làm điều lành,

Ngăn tâm làm điều ác.

Ai chậm làm việc lành,

Ý ưa thích việc ác.”

  1. “Nếu người làm điều ác,

Chớ tiếp tục làm thêm.

Chớ ước muốn điều ác,

Chứa ác, tất chịu khổ.”

  1. “Nếu người làm điều thiện,

Nên tiếp tục làm thêm.

Hãy ước muốn điều thiện,

Chứa thiện, được an lạc.”

  1. “Người ác thấy là hiền.

Khi ác chưa chín muồi,

Khi ác nghiệp chín muồi,

Người ác mới thấy ác.”

  1. “Người hiền thấy là ác,

Khi thiện chưa chín muồi.

Khi thiện được chín muồi,

Người hiền thấy là thiện.”

  1. “Chớ chê khinh điều ác,

Cho rằng “chưa đến mình “,

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần.”

  1. “Chớ chê khinh điều thiện

Cho rằng “Chưa đến mình, ”

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người trí chứa đầy thiện,

Do chất chứa dần dần.”

  1. “Ít bạn đường, nhiều tiền,

Người buôn tránh đường hiểm.

Muốn sống, tránh thuốc độc,

Hãy tránh ác như vậy.”

  1. “Bàn tay không thương tích,

Có thể cầm thuốc độc.

Không thương tích, tránh độc,

Không làm, không có ác.”

  1. “Hại người không ác tâm,

Người thanh tịnh, không uế,

Tội ác đến kẻ ngu,

Như ngược gió tung bụi.”

  1. “Một số sinh bào thai,

Kẻ ác sinh địa ngục,

Người thiện lên cõi trời,

Vô lậu chứng Niết Bàn.”

  1. “Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp.”

  1. “Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn khỏi tay thần chết.”

Phẩm Hình Phạt

  1. “Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người sợ tử vong.

Lấy mình làm ví dụ

Không giết, không bảo giết.”

  1. “Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người thích sống còn;

Lấy mình làm ví dụ,

Không giết, không bảo giết.”

  1. “Chúng sanh cầu an lạc,

Ai dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau không được lạc.”

  1. “Chúng sanh cầu an lạc,

Không dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau được hưởng lạc.”

  1. “Chớ nói lời ác độc,

Nói ác, bị nói lại,

Khổ thay lời phẩn nộ,

Ðao trượng phản chạm mình.”

  1. “Nếu tự mình yên lặng,

Như chiếc chuông bị bể.

Ngươi đã chứng Niết Bàn

Ngươi không còn phẩn nộ.”

  1. “Với gậy người chăn bò,

Lùa bò ra bãi cỏ;

Cũng vậy, già và chết,

Lùa người đến mạng chung.”

  1. “Người ngu làm điều ác,

Không ý thức việc làm.

Do tự nghiệp, người ngu

Bị nung nấu, như lửa.”

  1. “Dùng trượng phạt không trượng,

Làm ác người không ác.

Trong mười loại khổ đau,

Chịu gấp một loại khổ.”

  1. “Hoặc khổ thọ khốc liệt,

Thân thể bị thương vong,

Hoặc thọ bệnh kịch liệt,

Hay loạn ý tán tâm.”

  1. “Hoặc tai họa từ vua,

Hay bị vu trọng tội;

Bà con phải ly tán,

Tài sản bị nát tan.”

  1. “Hoặc phòng ốc nhà cửa

Bị hỏa tai thiêu đốt.

Khi thân hoại mạng chung,

Ác tuệ sanh địa ngục.”

  1. “Không phải sống lõa thể

Bện tóc, tro trét mình,

Tuyệt thực, lăn trên đất,

Sống nhớp, siêng ngồi xổm,

Làm con người được sạch,

Nếu không trừ nghi hoặc.”

142 “Ai sống tự trang sức,

Nhưng an tịnh, nhiếp phục,

Sống kiên trì, phạm hạnh,

Không hại mọi sinh linh,

Vị ấy là phạm chí,

Hay sa môn, khất sĩ.”

  1. “Thật khó tìm ở đời,

Người biết thẹn, tự chế,

Biết tránh né chỉ trích

Như ngựa hiền tránh roi.”

  1. “Như ngựa hiền chạm roi,

Hãy nhiệt tâm, hăng hái,

Với tín, giới, tinh tấn,

Thiền định cùng trạch pháp.

Minh hạnh đủ, chánh niệm,

Ðoạn khổ này vô lượng.”

  1. “Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn ván,

Bậc tự điều, điều thân.”

 

Xem thêm nguồn tại đây: https://phatgiao.org.vn/kinh-phap-cu-nguon-goc-y-nghia-va-cach-tri-tung-d48863.html

linh phù tài lộc

Linh phù tài lộc là gì ? Có những loại linh phù nào?

Linh phù là lá bùa mang ý nghĩa phù hộ cho chủ nhân gia chủ với các mục đích nhau như: thi cư, tình duyên, kinh doanh, may mắn, sức khỏe,…Tùy vào mỗi đối tượng mà lá bùa này phù có những ký hiệu thể hiện chức năng công dụng thần kỳ khác nhau. Bài viết dưới đây của thietkenhathoho.com sẽ giúp bạn tìm hiểu kĩ về Linh phù.

Linh Phù là gì?

Linh Phù là gì?

 

Linh Phù được biết đến rộng rãi có nguồn gốc xuất xứ từ Ấn, hay còn được gọi là bùa Ấn. Bùa Linh Phù có nhiều hình dạng khác nhau, chủ yếu mọi kí hiệu thể hiện về tài lộc, tình duyên,…Ngày trước nhiều pháp sư dùng giấy vẽ những bức linh phù cho người dân đem về cất trong người hoặc đem cho người khác để làm bùa hộ mệnh bản thân.

Linh Phù mang yếu tố tâm linh giúp người dùng bùa tin tưởng vào điều mình sẽ làm nhiều được về công việc kinh doanh, thi cử,…Giúp tinh thần người được phù hộ thêm vững vàng niềm tin hơn, mọi chuyện ước nguyện sẽ được suôn sẻ. Lá bùa này giúp chủ nhân của nó tránh gặp phải những chuyện xui xẻo, bệnh tật,…mọi thứ đều sẽ tai qua nạn khỏi trong khi gặp nguy nan, khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay linh phù được cải biến thành hình dán nhỏ lên điện thoại kèm theo đó là giảm độ bức xạ của điện thoại đến người tiêu dùng hạn chế tốt các tác động xấu của sóng âm truyền đến con người ở mức tối đa nhất.

Nguồn gốc ra đời của linh phù

Ngày trước một người muốn có được linh phù hiệu nghiệm để mang bên mình thì phải đến nhờ một thầy pháp sử có tiếng tâm giỏi về thuật và đạo hạnh cao biết nhiều phép để làm bùa ấn cho mọi người linh nghiệm mang đến đời sống tinh thần hạnh phúc, an yên. Vì thế mà bạn cần tìm những nơi uy tín để xin linh phù vì không phải ai cũng có năng lực cao cường để làm linh phù.

Nguyên liệu để làm linh phù nhất định phải sử dụng là linh bút, mực chu sa và giấy vàng thì mới tạo thành lá bùa. Vẽ linh phù không đơn giản mà được thể hiện bởi những đường nét tinh tế, mang ý nghĩa và mục đích đem lại cho người sử dụng như thế nào. Phẩm hạn của người vẽ linh phù càng cao thì càng hiệu nghiệm bởi họ đã truyền sức mạnh của mình vào lá bùa này.

Linh Phù dán điện thoại có tốt không?

Linh Phù dán điện thoại có tốt không?

 

Ngày nay linh phù không phải là tờ giấy nhỏ như đơn sơ như ngày trước, mà họ sẽ sản xuất nhiều hình dáng màu vàng với nhiều hình dáng linh phù khác nhau. Mỗi người sẽ có mục đích sử dụng linh phù khác nhau, những cô gái thì sẽ chọn linh phù liên quan đến tình duyên. Còn đối với những người chuyên buôn bán họ sẽ thường dán lên điện thoại mình lá linh phù may mắn, thần tài, bình an,…Để công việc làm ăn luôn thuận lợi, buôn may bán đắt, gặp nhiều mối làm ăn lớn giúp doanh nghiệp thêm vững mạnh.

Linh phù dán vào ốp lưng điện thoại thường là những ốp lưng trong suốt nhưng dễ bay mà và trơn trượt mất. Linh phù ngày nay bán trên các sàn thương mại rất phổ biến dù bạn là ai cũng dễ dàng sở hữu một loại linh phù cho mình.

Linh Phù có tác dụng gì? 

Linh Phù có tác dụng gì? 

 

Linh phù có xuất xứ từ xa xưa đã được ông bà ta vận dụng vào đời sống mà vẫn giữ được nét đặc trưng đến tận bây giờ. Mọi người thường đem theo bên mình để giúp dòng linh khí của mình thêm vượng, từ đấy mà người có luồng linh khí này luôn sẽ gặp vận may mở ra một cuộc sống bình yên mà thuận lợi hơn trước. Mọi điều xấu đến với chủ nhân linh phù đều sẽ hóa nguy thành an, những tai ương bủa vây cũng sẽ dần biến mất. Nhưng hơn hết người dùng bùa phải có lòng tin ở bản thân, thay đổi và cố gắng hoàn thiện những mục tiêu trong cuộc sống của chính bản thân mình.

Các loại Linh Phù Phổ biến

Có 3 loại linh phù phổ biến nhất hiện nay có thể kể đến Linh phù tự nhiên, Linh phù nhân tạo, Linh phù nhân tạo phép ấn. Tùy vào địa phương nơi bạn sinh sống mà chọn linh phù phù hợp.

Phù tự nhiên

Linh Phù trong tự nhiên có khả năng mang lại điềm may cho con người, ngoài ra những nơi mà linh phù này ở thường xuyên thì cây cối tươi tốt, mạnh khỏe, vùng đất ấy sẽ hội tụ nhiều linh khí tốt.

Linh phù sẽ xuất hiện trên các loài động thực vật nhỏ như kí hiệu trên thân cây, lá cây, trên vỏ ốc có hình xoắn ốc tạo thành hình phù hay con nhện chăng tơ có hình dáng tựa linh phù. Bạn có thể mang đem về và mang theo bên người hằng ngày.

Phù Nhân tạo

Linh phù được phổ biến rộng rãi và không chỉ còn nằm trên một tờ giấy đơn giản nữa mà nó còn là những kí hiệu chạm khắc trên gỗ, đồ gốm, đồ đồng,…Linh phù nhân tạo cũng sẽ có nhiều chức năng khác nhau dựa trên các kí hiệu mà người ta nhận dạng chức năng chính yếu của nó. 

Ngày nay giới trẻ đã sáng chế ra linh phù dáng điện thoại với nhiều hình dạng khác nhau, với nhiều mục đích sử dụng khác nhau nhằm mang đến cho nguời dùng nhiều sự lựa chọn và nơi cất giữ an toàn, không vướng víu như xưa.

Phép trấn bằng Phù Nhân tạo

Mọi phép phù đều được làm với mục đích tăng linh khí vượng cho chủ nhân và có khả năng trừ tà, thanh lọc sinh khí trên người mình trở nên tốt đẹp hơn. Ngoài ra linh phù có thể đem dán trước nhà ở cửa, cổng, lối vào nhà hoặc một góc nào đó trong nhà để giải hạn cho nhà mình.

Các dạng Linh Phù Phổ biến nhất hiện nay

Một số loại linh phù hiện nay giúp bạn giải vận xui cho bạn, gặp nhiều may mắn giúp con đường đời thuận lợi, dễ dàng hơn.

Linh phù may mắn

Linh phù may mắn

 

Người nào cũng muốn mình có thật nhiều may mắn đến với mình mà không biết phải làm sao vì thế họ thường tìm đến những lá bùa có thể hỗ trợ họ giúp họ gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Thường họ muốn có thật nhiều may mắn đến từ nhiều khía cạnh khác nhau, giúp cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập vận may, bước đi dễ dàng hơn trong cuộc đời.

Linh phù Ngũ lộ thần tài

Linh phù Ngũ lộ thần tài

 

Cung Tài Phúc là biểu tượng của tiền tài vật chất trong cuộc sống, mà vị thần cai quản cung này là ông Thần Tài. Vì thế mà nhà nào làm ăn đều thờ ông với ý niệm buôn may bán đắt, tiền bạc vào như nước. Thần tài sẽ có nhiều 4 vị bộ hạ như chiêu bảo (bảo vật), chiêu tài ( tiền tài), nạp trân (thu vật báu), chiêu tài (gọi tiền tài về), lợi thị (buôn bán có lợi) tùy mục đích của bạn mà bạn chọn một vị hạ bộ để thờ phụng hay mang theo bên mình. Người làm ăn kinh doanh nào cũng mang lá bùa này bên mình để buôn may bán đắt, công việc có nhiều mối làm ăn lớn, có nhiều quý nhân giúp đỡ trong công việc.

Linh phù công danh

Công danh sự nghiệp không chỉ quan trọng đối với phái nam mà ngày nay giới nữ cũng rất quan tâm, xã hội hiện đại phụ nữ không còn ở nhà nhiều như xưa nữa, mà lao ra làm việc nhiều như nam giới. Phù hộ cho bạn có nhiều bước ngoặt lớn đánh dấu sự nghiệp thành đạt của bản thân hay giúp mình thi cử tốt hơn ở những kì thi lớn như kỳ thi đại học.

Linh phù chuyển vận tài lộc

Linh phù chuyển vận tài lộc tức sẽ xấu thành tốt, hóa nguy thành an. Mọi thứ trong cuộc sống đều suôn sẻ, công việc làm ăn gặp nhiều may mắn giúp chủ nhân lá bùa luôn hạnh phúc vui vẻ với đời sống của chính mình.

Linh phù Hôn nhân hòa hợp

Linh phù Hôn nhân hòa hợp

 

Linh phù Hôn nhân giúp chủ nhân lá bùa duy trì mối quan hệ vợ chồng vui vẻ, hạnh phúc, mọi mẫu thuận được hòa giải, thấu hiểu người đầu ấp tay gối của mình. Mối quan hệ này sẽ không có người thứ 3 chen chân vào cuộc sống hôn nhân của hai vợ chồng. Bên cạnh đó, con cái cũng sẽ ngoan ngoãn, hiếu thuận với bố mẹ hơn.

Linh phù Bình an

Không ai trông đời mong mình gặp tai ương hay biến cố, họ đều ước mình có cuộc sống bình yên, hạnh phúc với những người thân thương bên mình. Linh phù Bình an sẽ phù hộ cho bạn gặp mọi chuyện thuận lợi, nhất là khi bạn thực hiện những chuyến đi xa nhà. Linh phù Bình an có nhiều loại khác mang tên như: linh phù tránh hạn 100 tai ương, linh phù ngũ lôi trừ tà,…

Linh phù Tình duyên

Linh phù Tình duyên

 

Nhiều người hay đi chùa để cầu tình duyên đặc biệt là phái nữ thường đem về cho mình một lá bùa để đường tình duyên hết trắc trở nhất là những cô gái trong tuổi lấy chồng. Lá bùa này giúp mình tăng sự duyên dáng từ bản thân và khí chất của mình toát ra đối với người khác phái làm thu hút người khác, tạo dấu ấn đặc biệt với người mình yêu thương.

Linh phù Tây Tạng

Tây Tạng là vùng đất linh thiên mang nhiều màu sắc tâm linh, bí ẩn. Bùa Tây Tạng được ví như một loại bùa tâm linh hơn bởi những câu chuyện nhiệm màu xoay quanh nó, càng làm tô vẽ thêm sức mạnh của lá bùa này.

Linh phù Buôn may bán đắt

Linh Phù có tác dụng gì? 

 

Càng là chủ doanh nghiệp lớn thì không thể thiếu linh phù buôn may bán đắt được, bởi bất kỳ chủ doanh nghiệp đều mong muốn sản phẩm của mình đến tay nhiều người tiêu dùng và thương hiệu mình ngày càng lớn mạnh giúp thu về nhiều hợp đồng, mang tiền tài thu về lớn.

Linh phù Quý nhân phù trợ

Lá bùa Quý nhân phù trợ này luôn là lá được sử dụng nhiều, vì trong cuộc sống ai ai cũng muốn có người giúp đỡ mình để công việc thuận buồm xuôi gió hay dẫn dắt mình khi mình chưa có kinh nghiệm hay tài sản gì trong tay. Hoặc trong những lúc khó khăn nhất trong đời bạn vẫn được quý nhân giúp đỡ, hỗ trợ bạn về nhiều mặt giúp cải thiện lại đời sống của mình và gia đình đây là một điều đáng quý và may mắn nhất trong cuộc đời.

Linh phù Sức khỏe

Linh phù Sức khỏe

 

Mang lại sức khỏe cho chủ nhân lá bùa, dù có bệnh tật gì nặng cũng có thể vượt qua hết. Cuộc sống sẽ bình an, ít gặp sóng gió hơn trước. Bạn có thể xin lá bùa này giúp người thân làm quà tặng, mong họ luôn có sức khỏe dồi dào.

Linh phù Thái tuế

Linh phù Thái tuế sẽ giúp bạn hóa giải mọi trắc trở về công việc như gặp nhiều chuyện thị phi, công việc gặp nhiều khó khăn không thể giải quyết,…Thì lá bùa này sẽ giúp bạn giảm những tiêu cực trên người để mang lại nhiều may mắn hơn.

Linh phù Thái Tuế phù hợp nhất với những người có tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, tuổi khác có thể sử dụng nhưng hiệu quả không bằng.

Linh phù tài lộc

Linh phù tài lộc

 

Linh phù tài lộc rất hợp với những người chuyên làm kinh doanh giúp thu hút tài lộc và con đường kinh doanh ngày càng rộng mở ít gặp sóng gió, gặp được quý nhân phù trợ nên ngày càng thêm phát đạt vinh hiển. Ngoài khả năng tăng tài vượng, tiền tài thì lá bùa này còn giúp bạn tránh gặp kẻ tiểu nhân hay họa hại thân, tai ương,…không may ập đến.

Những lưu ý khi sử dụng Linh Phù

Linh Phù chỉ có công hiệu cao khi nó được bảo quản tốt và luôn là tín vật bất ly thân bên mình. Khi sử dụng linh phù thì cần đặt trong ốp lưng điện thoại hay nhét dưới gối nằm tránh làm lạc mất hay bị các tác nhân bên ngoài làm hư hại linh phù, làm mất đi khả năng linh nghiệm của nó. Linh phù cần tránh tiếp xúc nhiều với môi trường nước vì có thể làm bay mất chữ trên linh phù, làm vơi đi bớt hiệu nghiệm của nó, lâu dần thì hiệu nghiệm trên linh phù sẽ không còn nữa mà trở thành một lá bùa bình thường không còn hoạt động linh nghiệm như trước.

Linh phù có mục đích chính là hóa mọi điềm hung thành an. Nếu bạn có ý định sử dụng linh phù với mục đích khác thì kết quả sẽ không hiệu nghiệm. Giống như bạn mua linh phù cầu sức khỏe lại mong linh phù đó cầu buôn may bán đắt thì sẽ không có hiệu nghiệm. Mỗi kí hiệu linh phù sẽ tượng trưng cho một ý nghĩa khác nhau, bạn muốn cầu điều gì thì mua linh phù mang ý nghĩa đó.

Bạn cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977 703 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian chuẩn tâm linh nhất.

Cách hóa giải nghiệp chướng

Nghiệp chướng là gì? Làm thế nào để hóa giải nghiệp chướng ?

Mỗi người đều gặp phải những xui xẻo, khó khăn, áp lực, công việc bất ổn, gặp vấn đề tinh thần, gia đình bất hạnh, bệnh tật,… Rồi kêu than đó là do “nghiệp chướng”. Vậy nghiệp chướng là gì? Tại sao ta lại phải gánh vác? Nó ảnh hưởng như nào? Ta phải làm những việc gì để giải thoát? Đó là những câu hỏi luôn được mọi người thắc mắc. Nếu bạn đang cần giải đáp những câu hỏi như trên, thì đây là bài viết dành cho bạn. Hãy cùng thietkenhathoho.com tìm hiểu về Nghiệp chướng.

Nghiệp chướng là gì?

 

Nghiệp chướng là gì?

Không nên làm điều ác để tạo ra nghiệp ác.

Nghiệp chướng thường được dùng trong đạo Phật, là từ ngữ xuất hiện trong những bài giảng của Đức Phật. Nghiệp chướng được ghép lại bởi từ “nghiệp” và từ “chướng”. Nên trước khi hiểu về khái niệm nghiệp chướng ta phải tìm hiểu ý nghĩa của 2 từ này. 

Nghiệp: được biểu hiện cho sự khởi đầu cho những suy nghĩ, hành động, lời nói, cử chỉ của mỗi người. Hay đó có thể là kết quả của sự tạo nghiệp của con người, nhưng cần phải xem xét theo từng tình huống để xác định. Những suy nghĩ trong thâm tâm ta chính là sự khởi đầu cho những tư tưởng dẫn đến lời nói và cử chỉ mang nghiệp cho bản thân. Nhìn chung, nghiệp được tạo ra bởi chính suy nghĩ, lời nói, hành động, cách sống của chúng ta. Hay còn gọi đó là tạo nghiệp. Hậu quả của việc tạo nghiệp, đó là tất cả những nghiệp mà ta phải mang. Nghiệp sẽ tiếp nối tuần hoàn và tăng lên nếu ta không làm điều lành.

Chướng: là ý chỉ những chướng ngại trong công việc, đời sống sinh hoạt, các mối quan hệ,… Đây sẽ là vật cản bên ngoài ảnh hưởng đến cuộc sống mỗi người.

Vậy nghiệp chướng là gì? Ta có hiểu một cách nôm na đó là kết quả của những hành động, suy nghĩ, cử chỉ, lời nói, tư tưởng của một cá nhân. Từ đó làm cản trở cho công việc, đời sống, các mối quan hệ của chính bản thân.

Theo vị trí ta sẽ nghĩ nghiệp sẽ có trước, chướng sẽ có sau. Tuy nhiên, những chướng ngại mới gây ra những tác động khiến ta tạo ra nghiệp. Vậy nghiệp chướng ý chỉ điều xấu?. Đó là suy nghĩ sai, vì nó không hoàn toàn nói về những điều xấu mà còn nói về những điều lành. Những điều lành đó còn được gọi là Thiện nghiệp. Theo ghi chép, Thiện nghiệp có 3 đường thiện là Trời, Người, Atula. Còn 3 đường ác là địa ngục, ác quỷ, súc sinh. Vì thế nếu là điều lành hay điều ác đều gọi chung là tạo nghiệp.

Hai loại nghiệp báo phổ biến

Không sát sanh

 

Theo như Phật giáo đã giảng dạy ta sẽ có 2 loại nghiệp phổ biến nhất đó là: dẫn nghiệp và mãn nghiệp. 

Dẫn nghiệp

Dẫn nghiệp được hiểu là nghiệp dẫn dắt chúng sanh vào sáu cõi như sau:

  • Cõi thiện sẽ có: cõi Trời, cõi Người, cõi Atula.
  • Cõi ác sẽ có: cõi súc sinh, cõi ác quỷ, cõi địa ngục.

Đối với con mắt loài người sẽ không thấy được cõi Trời và cõi Atula. Những người tồn tại ở 2 nơi này sẽ tuổi thọ cao và nhiều phép biến hóa hơn loài người gấp vạn lần. Mặc dù đôi mắt ta không thể thấy được họ, nhưng họ vẫn tồn tại để phù trợ cho ta. Dân gian ta hay gọi họ là vị thần, quỷ, vị tiên.

Còn ở nơi cõi ác thì loài người ta sẽ không thấy những người trong cõi ác quỷ và địa ngục. Loài ác quỷ thường có chiếc bụng to, cổ họng thì lại rất bé. Chính vì vậy mà loài này rất hay đói, nên được gọi là quỷ đói. Đây chính là đặc điểm để nhận dạng ra ác quỷ. Còn những người trong cõi địa ngục thì chịu khổ đến mức chính loài người không hình dung được. Còn súc sinh thì vô vàn loại, đặc điểm chung là cấu xé nhau, vẫn có trường hợp ngoại lệ. Gia súc, chó, mèo, heo, ngựa, trâu đây là một trong những loại súc sinh tiêu biểu nhất. Đây đều quá quen thuộc với loài người, nên chúng ta cũng biết được loài này sống cực khổ đến nhường nào. Trong chính đời sống mỗi người đều quên rằng nếu ta không ngay thẳng, không làm điều bác ái, không mở rộng từ bi, thì chính lúc ta qua đời sẽ sinh ra là chính súc sinh. Nếu ta cứ coi thường, sống theo lối sống của loài súc sinh thì điều đó sẽ xảy ra.

Cho nên bản thân ta cũng phải đi tìm hiểu về cách vận hành của nghiệp, đặc biệt là dẫn nghiệp. Mục tiêu của nghiệp sinh ra đó chính là nhắc nhở ta phải sống có ý nghĩa, khiến ta chủ động tạo ra những nghiệp lành cho đời này lẫn đời sau, giúp ta không phải đi vào cõi ác mà được tái sanh trên cõi thiện, dắt ra đến nơi cõi là cõi Trời, được giác ngộ và giải thoát.

Ngoài gọi với tên dẫn nghiệp, Phật giáo còn gọi là tái sanh nghiệp. Bởi vì đây là hành động của con người tạo ra nghiệp lành hoặc ác, nó sẽ quyết định tương lai sẽ được tái sinh của mỗi một cá nhân, và cả những điều xảy ra trong đời sống sinh hoạt ở đời sau.

Một ví dụ điển hình, để ta thấy những hành động tạo ra nghiệp ác sẽ quyết định tương lai tái sinh của một người. Người đó sẽ đi vào một trong 3 cõi ác là địa ngục, ác quỷ, súc sinh. Đó chính là hành động cố ý giết chết cha, mẹ, thánh A la hán, làm Phật bị thương, phá đi sự hoàn thuận của vị Tăng. Được gọi đây 5 tội lớn tày trời (ngũ nghịch). Nếu phạm phải một trong 5 tội trên thì sẽ tái sinh vào cõi ác. Đối với 5 tội này được coi là những tội không thể chấp nhận được, sẽ khó được tha thứ. Thể hiện người này không giữ 5 giới, sống buông thả, không siêng năng tu tâm theo thập thiện lành. Nếu không ăn năn, sám hối thì sẽ bị đọa vào ba cõi ác. May mắn thay thì cũng sinh ra làm người nhưng sống bất hạnh, bệnh tật, đau ốm, bị chê bai, sống không thọ.

Mãn Nghiệp

Sau khi ta được tái sinh sống trong thân thể con người, những điều hạnh phúc trong đời này, nhưng của cải ta có trong đời này, danh vọng và sự nghiệp có được đều là quả báo mà kiếp trước ta tu tâm được. Những quả báo đó ta nhận được là do:

  • Bố thí tiền bạc sẽ được giàu sang .
  • Bố thí pháp sẽ được trí thông minh.
  • Bố thí sự bác ái, giúp đỡ mọi người sẽ được sống trường thọ.

Ta hãy cố gắng làm đủ 3 bố thí này, để gặt được bảo vô cùng viên mãn, sẽ được giàu có, sự thông minh, sức khỏe tốt và trường thọ. Mặc dù là như vậy ta vẫn thấy có người sống trong nhung lụa nhưng lại không thông minh, nhưng họ vẫn có thể trở thành những người rất tài giỏi. Những người này khi làm chủ, nhân viên sẽ dốc lòng làm việc cho họ, sẽ trả lại nợ đã hiểu để báo ân cho họ. Bởi thế nên người có lòng tu tâm thiện chí sẽ được những mãn nghiệp tốt cho bản thân.

Nếu kiếp trước không cố gắng tu thì chắc chắn cuộc sống đời sau sẽ gặp khó khăn, bất hạnh. Phật giáo luôn cố gắng giúp ta thấu hiểu được sự siêng năng sẽ giúp ta thu hoạch được quả ngọt. Hãy cố gắng hết sức khi còn thời gian. Nếu chỉ còn một thời gian ngắn ngủi, thì vẫn phải nỗ lực, quả báo vẫn sẽ có, vận mệnh ta vẫn sẽ thay đổi tốt lên. Vận mệnh ta có thay đổi theo hướng thiện không đều nằm trong cách sống của chính ta.

Vì vậy ngay bây giờ ta hãy sống với tâm thiện, hành động đẹp, sẽ gặt được những quả báo tốt đẹp hơn mỗi ngày. Nhưng nếu bây giờ ta vẫn trì trệ, sống tâm ác, không làm hành động đẹp sẽ khiến ta không tăng công đức mà còn mất đi những phước lành ta đang có. Một khi những phước lành đã bị tổn hao đi hết thì 3 cõi ác sẽ dần hiện ra ở tương lai.

Thực tế có rất nhiều gia đình giàu có, kinh doanh rất tốt nhưng sau đó vài năm thì phá sản, đó chính là hình ảnh phước lành đã bị tiêu tan. Để nhận được công đức cũng không phải quá khó, nhưng mất đi cũng rất dễ dàng. Đây là đạo lý ta phải hiểu rõ để giúp bản thân trong hiện tại và tương lai.

Tại sao phải hóa giải nghiệp chướng

Lợi ích của việc siêng năng niệm Chú Đại Bi

 

Phật Pháp luôn dạy ta về luật nhân quả, nếu ta sống tạo ra nghiệp lành ắt hẳn sẽ gặp những điều may mắn, tốt đẹp trong cuộc sống. Nhưng nếu ta sống tạo ra nghiệp ác sẽ gây ra vô vàn những khó khăn trong đời sống, nên ta buộc phải giải nghiệp. 

Khi hóa giải nghiệp xấu chính bản ta phải luôn sáng suốt, hành động một cách có suy nghĩ, nhẫn nhịn, kiên trì để thành thói quen. Nhờ điều đó mà ta dần dần sẽ sống với tâm ý như vậy, đó chính là thói quen tốt đẹp Phật muốn ta học. Mỗi một lời nói, tâm ý, hành động phải luôn cẩn trọng để tránh mang đến những hậu quả xấu cho bản thân mình.

Khi ta làm điều sai trái dẫn đến có nghiệp ác, ta phải giải nghiệp các sớm nhất có thể. Việc hóa giải không chỉ giúp ta xóa tan đi nghiệp ác mà phần nào khiến tâm thanh thản, an bình, không lo lắng, không sợ hãi. Đồng thời cũng có thể xóa đi cả tội lỗi của quá khứ.

Giải đi những nghiệp chướng sẽ giúp ta tìm được con đường khiến ta có phẩm chất đẹp, đạo đức tốt và noi theo các bậc Thánh để sáng suốt, từ bi. Khi xóa tan được những nghiệp chướng thì phước lành cũng sẽ đến với ta. Lúc đó sẽ được sống hạnh phúc, gặp được những điều may mắn và được mọi người yêu thương.

Cách để hóa giải nghiệp chướng

Đến chùa phật cô đơn cầu gì?

 

Nghiệp là gồm có nghiệp lành và nghiệp ác. Nghiệp thiện sẽ sinh ra điều may mắn. tốt đẹp cho tương lai, còn nghiệp ác thì phải tìm cách hóa giải ngay lập tức.

Cách hóa giải nghiệp chướng tốt nhất đó là tuệ và định. Tuệ có nghĩa là sáng suốt, nghĩ kĩ càng trước khi hành động hay nói. Định có nghĩa là kiên định trước mọi việc, không dễ bị ảnh hưởng đến suy nghĩ, lời nói, hành động của mình.

Khi có đủ 2 yếu tố tuệ và định mới có thể thoát khỏi vòng luân hồi, phán đoán và giải quyết vấn đề hợp lý nhất. Nên ta luôn được dạy phải làm điều tốt tránh làm điều xấu gây ra nghiệp ác cho sau này. Lưu ý, khi ta làm điều lành không được tính toán để không tạo nghiệp chướng.

Khi làm bất cứ điều gì bản thân phải luôn nhớ đến giới, định, tuệ để nhắc nhở bản thân sống ngay thẳng. Mỗi người đều có hoàn cảnh khác nhau, nên khi người khác mắc lỗi không được so đo mà hãy tìm hiểu và tìm hướng giải quyết. Nhờ vậy mà ta sẽ thành công không tạo nghiệp ác mà còn giải nghiệp tận gốc.

Sau đây là những cách cụ thể hơn để giúp ai đang mang nghiệp ác có thể xóa đi mang lại niềm vui trong thâm tâm:

Xóa đi mọi oán hận với người khác

Xóa đi mọi oán hận với người khác

 

Lời giảng dạy của Đức Phật

Mỗi người đều có những tính cách khác nhau, nên sẽ dễ có những hiểu lầm với nhau. Chúng ta không bao giờ có thể sống vừa lòng tất cả mọi người được. Nhưng đừng để những việc đó ảnh hưởng đến cuộc sống, khiến bản thân sinh nghiệp ác.

Để tiêu tan nghiệp phải sống mở lòng, nhẫn nhịn, tha thứ đây là cách hữu hiệu nhất. Khi gặp những việc như vậy, hãy đến với Phật. Hãy sống như Người để lòng được thanh thản, trong tâm toàn là điều thiện, không sân si với đời.

Tự sám hối, niệm kinh Phật

Tự sám hối, niệm kinh Phật

 

Thành tâm bái Phật để người giúp đỡ.

Mỗi người hãy cố gắng dành thời gian ăn chay, sám hối, niệm Phật cách thành tâm để hóa giải hậu quả của nghiệp.

Nhưng không phải ta sám hối nhiều lần thì nghiệp ác sẽ tiêu tan. Đối với việc những việc này sẽ sinh ra công đức giúp ta giải đi phần nào chứ không diệt tận gốc. Cho nên phải thực hiện mỗi ngày, nhiều buổi khác nhau trong ngày, thành tâm thì sẽ bớt đi dần nghiệp chướng.

Làm việc bác ái, tích thêm công đức

Làm việc bác ái, tích thêm công đức

 

Cho đi để thêm phước lành

Không chỉ có Sám hối, niệm kinh, chay tịnh sẽ giải trừ nghiệp chướng mà còn phải làm những việc bác ái xuất phát từ tâm để chuộc tội. Nếu bản thân niệm kinh Phật mỗi ngày, nhưng lại làm những hành động xấu và suy nghĩ những việc hãm hại người khác thì rất khó giải trừ. Bởi vậy ta phải cứu giúp những người đang gặp khó khăn.

Đây là việc mà bất kể trường học, mọi người khắp nơi không phân biệt ngôn ngữ và tôn giáo đều muốn ta thực hiện. Xã hội hiện nay muốn hướng con người sống văn minh và giúp đỡ người khác. Ngoài giúp người khác, còn giúp bản thân tích đức.

Đây là một việc rất đơn giản và thiết thực trong đời sống. Ta có thể tham gia hiến máu nhân đạo để giúp những người đang giành giật với tử thần để được sống. Ngoài ra ta có thể giúp cho các bạn bị tật nguyền, vô gia cư, bị ung thư, già yếu không có người thân chăm sóc,… nhớ đó phước lành sẽ đến với ta.

Phóng sanh muôn loài

 

Phóng sanh muôn loài

Phóng sanh là hành động mang công đức nhiều nhất.

Tránh sát sinh là một trong những điều thiện thập nghiệp muốn dạy ta. Việc ta cứu những sinh vật tội nghiệp trước cái chết sẽ được phước lành to lớn. Phóng sinh dù chỉ một lần cũng sẽ được ân huệ đời đời, từ đó nhận vô vàn ân phúc. Đối với việc phóng sinh động vật thì loài nào cũng tốt, nhưng nếu được ta có thể ưu tiên theo thứ tự như sau:

  • Loài chó, mèo, trâu, bò, ngựa: đây là loài trung thành và tình cảm với con người nhiều nhất.
  • Loài rùa, ba ba, lươn, rắn: đây là những loài có tính tâm linh. Nếu phóng sinh một trong những loài này sẽ gặp những màu nhiệm, may mắn kỳ lạ.
  • Loài cá trê, ếch, nhái: biểu hiện cho sự khao khát sống, rất mạnh mẽ.
  • Những loài đang sắp sinh nên được ưu tiên hàng đầu để phóng sanh.

Chính ta phải nhớ rằng phóng sanh muôn loài cũng là bảo vệ mạng sống của tổ tiên, dòng tộc, những người thân thiết đã qua đời của ta nay được tái sinh. Nên phóng sinh được coi cách hóa giải nhanh và được nhiều ơn phước nhất.

Sống với tấm lòng từ bi

Sống với tấm lòng từ bi

 

Sống mở rộng lòng từ bi như Đức Phật

Nghiệp chướng khiến cuộc sống ta trở nên bất hạnh, rồi dẫn đến những phiền não của bản thân. Ngoài ra có những người lại vì ham danh vọng, sân si, tham tiền của để rồi tự tạo ra nghiệp ác. Cột lõi của việc giải thoát nghiệp ác đó chính vượt qua phiền não của bản thân. Tâm an bình, không lo lắng sẽ càng tiêu tan đi nhiều hơn.

Bởi vậy ta không nên thù hằn với bất cứ ai. Hãy bao dung, tha thứ cho người khác cũng là cho chính bản thân mình. Được gọi là phương pháp đơn giản nhất, nhưng không phải ai cũng làm được nếu không muốn thực hiện.

Khi ta sống với tấm lòng từ bi như Đức Phật, ta sẽ gạt bỏ đi những sân si và ganh ghét người khác. Chính những điều đó khiến tâm ta lung lay, mất phương hướng, dễ sa đọa. Những khi đã làm được sẽ sống hạnh phúc và không tạo nghiệp ác.

Bạn cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc an thờ tại gia có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977 703 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian hoàn hảo nhất.

những cấm kỵ không được làm trên ban thờ

Những điều cấm kỵ trên bàn thờ bạn nên biết

Bàn thờ là nơi vô cùng linh thiêng kết nối 2 cõi âm dương, do đó khi sắp xếp bất kỳ vật gì gia chủ cũng cần phải tính toán kỹ lưỡng, để tránh phạm phải những điều cấm kỵ trên bàn thờ khiến gia đình lục đục, bất hòa, sức khỏe suy yếu. Dưới đây, thietkenhathoho.com xin tổng hợp những điều cấm kỵ khi bài trí, sắp xếp, lựa chọn các vật phẩm thờ cúng trên bàn thờ, mời các bạn cùng theo dõi.

Một số điều cấm kỵ về vị trí và hướng lập bàn thờ

Một số điều cấm kỵ về vị trí và hướng lập bàn thờ

 

Theo phong cách thiết kế nội thất của những ngôi nhà ba gian truyền thống xưa, bàn thờ gia tiên thường được đặt tại gian chính giữa ngôi nhà. Lâu dần cách bài trí này đã trở thành thói quen và nét đẹp văn hóa của người dân. Tuy nhiên, nếu nhà bạn được xây theo lối hiện đại có nhiều diện tích rộng và nhiều phòng riêng, và tuân theo một số quy tắc sau: 

  • Không đặt bàn thờ ngược với hướng cửa chính nhà vì điều này rất độc.
  • Chọn hướng đặt bàn thờ hợp với tuổi của chủ nhà.
  • Không đặt bàn thờ ở cuối hành lang, lối đi lại, đối diện nhà vệ sinh, nhà bếp, gầm cầu thang, trên nóc tủ quần áo.
  • Hệ thống đèn chiếu sáng cần phải được lựa chọn kỹ lưỡng, kích thước và KW phù hợp với diện tích phòng thờ. 
  • Nên bố trí đèn sao cho ánh sáng không chiếu thẳng vào người ngồi khi hành lễ cúng bái.
  • Tường có treo tranh nên bố trí thêm hai đèn âm tường cân xứng hai bên bức tranh tạo sự lung linh, trang nghiêm hơn cho không gian thờ cúng.

Kiêng kỵ về thời gian và người lập bàn thờ

Kiêng kỵ về thời gian và người lập bàn thờ

 

Về thời gian và người lập bàn thờ cũng có một số kiêng kỵ nhất định. Việc lập bàn thờ thường được tiến hành đồng thời với thời gian nhập trạch để không làm ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống sau này. Ngoài ra, người ta cho rằng phụ nữ mang thai có nhiều tạp khí, không nên động chạm vào bát hương và bàn thờ khi tiến hành lập bát hương. Người cúng cần là người có tâm, tay chân sạch sẽ, quần áo chỉnh tề. Gia chủ có thể tự bốc bát hương mà không nhất thiết phải nhờ người khác.

Những cấm kỵ trong cách bố trí vật phẩm trên bàn thờ

Những cấm kỵ trong cách bố trí vật phẩm trên bàn thờ

 

Bàn thờ là nơi thờ cúng gia tiên chứ không phải nơi trưng bày hay phô trương khoe mẽ, những thứ không liên quan đến thờ cúng ta không bày lên bàn thờ, nhất là giấy tờ công đức ở đình chùa. Dưới đây là một số điều cấm kỵ trên bàn thờ mà bạn cần biết.

Không nên thờ 3 họ trên bàn thờ

Không nên thờ 3 họ trên bàn thờ

 

Thông thường bàn thờ gia tiên hiện nay của các gia đình chỉ thờ thần linh, bà cô ông mãnh và gia tiên bên nội. Cũng có gia đình bốc thêm bát hương thờ họ ngoại. Nếu có thêm họ ngoại, ta sắp xếp theo thứ tự, ở giữa là thần linh, bên trái là họ nội, bên phải đặt họ ngoại. Không nên thờ thêm. Đối với bàn thờ này, nếu gia chủ muốn thờ thêm bát hương cô bé cậu bé đỏ tại gia, bà cô ông mãnh thì nên lập thêm bàn thờ phụ.

Nếu thờ gia tiên cùng Phật hay thờ mẫu, cần tách riêng bàn thờ Phật hay thờ mẫu, bàn thờ gia tiên để thấp hơn và tách biệt

Không để bát hương chông chênh và lệch về một phía

Mỗi một vùng miền và tôn giáo khác nhau sẽ có cách đặt số lượng, kích thước và cách bài trí khác nhau. Nhưng nhìn chung, họ đều đảm bảo bát nhang để chính giữa, cân xứng với bàn thờ để đảm bảo sự uy nghi, tôn kính với người đã khuất. 

Nếu gia chủ muốn phân cấp bát hương trên bàn thờ thì cần mua thêm tam cấp để bát hương. Tuyệt đối không được kê cao bát hương bằng giấy hoặc gạch, đá khiến bát hương bị chông chênh, dẫn đến việc động bát hương, không tốt cho phong thủy.

Không xê dịch bát nhang

Việc lau dọn, giữ cho bàn thờ của gia đình sạch sẽ giúp thể hiện sự tôn tính, kính trọng với thần linh và tổ tiên. Tuy nhiên, những vật dụng dùng để lau dọn bàn thờ như chổi, khăn… phải là đồ sạch sẽ, mới, để riêng, không dùng chung với việc khác.

Đặc biệt, trong quá trình bao sái bàn thờ, rút tỉa chân hương, gia chủ cần tiến hành cẩn thận, tuyệt đối không được làm xê dịch bát nhang khỏi vị trí ban đầu. Bởi nếu lỡ xê dịch một chút cũng vẫn có thể làm kinh động đến thần linh, gia tiên.

Tuyệt đối không dùng cát để bỏ vào trong bát hương

Tuyệt đối không dùng cát để bỏ vào trong bát hương

 

Gia chủ không được tự ý chèn cát vào trong bát hương trên bàn thờ vì nó sẽ khiến bát hương không linh nghiệm, gia đình gặp phải chuyện không may, lục đục, cãi vã. Bạn cần dùng tro nếp đã loại bỏ tạp chất để chèn bát hương. Bạn có thể tham khảo kỹ hơn tại bài viết bốc cốt bát hương để hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Trên bàn thờ không dùng bát hương bằng đá 

Gia đình nên dùng bát hương bằng gốm sứ hoặc bằng đồng để thờ cúng, không nên dùng bát hương bằng đá trên bàn thờ tại gia vì nó sẽ ảnh hưởng đến đường tài lộc của các thành viên trong gia đình. Bát hương đá sẽ phù hợp sử dụng ở chùa, miếu, đình hơn.

Những cấm kỵ về lễ vật trên bàn thờ

Những cấm kỵ về lễ vật trên bàn thờ

 

Về lễ vật thờ cúng trên bàn thờ, gia chủ cần chú ý, không thắp hương hoa quả giả bằng nhựa, cũng như các loại quả có gai nhọn, vỏ sần sùi (tham khảo chi tiết trong bài viết cách sắp xếp hoa quả thắp hương). Mà cần chọn hoa tươi, quả ngon, nước sạch để cúng kiếng thần linh, gia tiên. Đồ thờ cúng xong thì bỏ xuống để thụ lộc, tránh bày để lâu ngày từ mùng 1 sang đến hôm rằm. Và tuyệt đối không để lễ mặn nên bàn thờ Phật.

Trên đây là một số điều bạn cấm kỵ trên bàn thờ, mong rằng những thông tin trên sẽ giúp ích được nhiều cho bạn. Cảm ơn quý độc giả đã quan tâm theo dõi.

Nếu bạn cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian thờ cúng chuẩn tâm linh nhất.

thập thiện nghiệp của con người

Thập thiện nghiệp là gì?

Đối với những Phật tử có lẽ đã quá quen với Thập Thiện Nghiệp, được biết đến là nguồn gốc của tất cả pháp lành nơi dương gian. Muốn chấm dứt khỏi vòng luân hồi, bản thân nên vượt qua nấc thang cốt lõi của nghiệp con người gặp phải. Bài viết dưới đây của thietkenhathoho.com sẽ giúp bạn tìm hiểu sâu hơn, từ đó ngộ ra lời Phật dạy.

Khái niệm về nghiệp

Khái niệm về nghiệp

Thập thiện nghiệp – Mười điều nghiệp lành

Mỗi một căn nhà, mỗi một tổ ấm, mỗi một cá thể không phải ai cũng giống nhau. Tất cả chúng ta đều mang những bản chất riêng biệt, tính cách khác nhau. Sẽ có những người ấm no, kẻ giàu sang, có những người sinh ra mang khiếm khuyết, lại có nhiều người tài năng. Chính sự bất công đó cũng có ta thấy được nghiệp mà mỗi người đang gánh trên vai. Tất cả đều do chính bản thân, nên ta cũng phải ý thức về hành động mình làm ở quá khứ, hiện tại, và tương lai.

Có người sẽ hỏi sao: Tại sao mình lại sống trong nghèo khổ? Tại sao tôi lại cứ đau khổ như vậy? Tại sao mọi người đều hạnh phúc, nhưng tôi lại không? Tại sao họ lại giàu như vậy? Tại sao người mắc căn bệnh này lại là tôi? Tại sao tôi lại rời xa ba mẹ mình? Ba sao con không có đôi tay như bạn con ạ? Mẹ ơi bạn đó bị làm sao vậy ạ? Con không có ba mẹ ạ?… Hàng ngàn, hàng triệu những câu hỏi biểu hiện cho những nỗi bất hạnh mà con người chúng ta đang chịu đựng. Đó không phải là sự sắp xếp ngẫu nhiên, tất cả đều là nghiệp từ kiếp trước đã để lại.

Đức Phật đã dạy ta rằng: “Tất cả chúng sanh đều mang “nghiệp chướng” của mình, của tổ tiên, của dòng dõi. Chính nghiệp (Kamma) đã tạo ra sự riêng biệt của chúng sanh, mỗi người một tình cảnh cao thấp ”. Hiểu được điều đó ta phải có trách nhiệm cho cuộc sống của mình. Bởi chính chúng ta là người mang lại công đức hay là nghiệp. Chính chúng ta sẽ lựa chọn cánh cửa cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Hạnh phúc hay bất hạnh đều là do ta chọn.

Nghiệp chính là những hành động cố ý, có hiểu biết, tự ý thức được. Nghiệp được chia thành nghiệp tốt và nghiệp xấu. “Gieo nhân nào gặt quả nấy”, nếu làm việc thiện thì thu hoạch sự lành, làm việc ác thì gặt được ác báo. Đối với quả cũng có quả chín, quả chua, quả ngọt, quả cứng,… Nếu ta ý thức được hành động và hiểu biết sẽ tạo ra mùi vị quả ta mong muốn. Cuộc sống hiện tại là quả thu hoạch của mình trước kia. Hãy nhìn lấy quả đó mà ý thức đến hành động bản thân. Như vậy cũng góp phần tăng công đức cho bản thân. Hãy ý thức đến tương lai của chúng ta.

Đây chính là một trong vô số những quy luật vận hành vũ trụ này. Đây không phải do đấng sáng tạo tạo ra mà nó vận hành một cách tự nhiên. Nếu ta hiểu được ý nghĩa của nghiệp sẽ phần nào có niềm tin về mặt đạo đức và tâm linh. Hiểu được quy luật đó ta cũng sẽ cố gắng làm việc thiện, bác ái, giúp mọi người từ đó tự tin hơn không còn bi quan, tự ti, tuyệt vọng. Không gì ngăn cản được ta, quyền lựa chọn do bản thân.

Thập thiện nghiệp là gì?

Thập thiện nghiệp là gì?

 

Phải biết kính sợ, tin vào luật nhân quả

Theo như ta tìm hiểu về Nghiệp, nói rằng việc ta sống thiện lành hay xấu xa sẽ ảnh hưởng đến quả ta thu hoạch. Bởi ta muốn cuộc sống an lạc ở hiện tại và cả đời sau, ta phải cố gắng tu tâm theo Thập Thiện Nghiệp.

Đây sẽ bước tiến lớn để nhanh đến cõi Tây phương cực lạc, nơi những điều ta mong ước thành hiện thực. Trên con đường tu hành để được chứng quả, có rất nhiều thử thách và học hỏi nhiều điều để hiểu về Phật. Thập Thiện Nghiệp cũng được coi là nấc thang cơ bản, quan trọng mà ta phải lên được. Vì đó chính là nguồn gốc của phước lành nơi dương gian này.

Thập thiện nghiệp bao gồm những gì?

Thập thiện nghiệp thường được gọi ngắn gọn là thập thiện, hay còn được gọi là thập thiện giới. Mặc dù có nhiều cách gọi những tất đều hướng đến mười loại nghiệp thiện mang đến phước lành. Mười loại đó là:

  • Không sát sanh
  • Không trộm cắp
  • Không tà dâm
  • Không nói dối
  • Không thêu dệt
  • Không thâm thọc
  • Không nói thô ác
  • Không xan tham
  • Không sân hận
  • Không si mê

Nghiệp được chia thành nghiệp dữ và nghiệp lành. Phía trên được nêu đó chính là mười loại nghiệp lành (thập thiện nghiệp). Mười loại nghiệp được chia theo: Thân (hành động), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ).

  • Thân gồm có ba loại: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
  • Khẩu gồm có bốn loại: Không nói dối, không thêu dệt, không thâm thọc, không nói nói thô ác.
  • Ý gồm có ba loại: Không xan lam, không sân hận, không si mê.

Không sát sanh

Không sát sanh

 

Phạm tội sát sanh sẽ gặp báo ứng.

Mỗi người chúng ta đều có nỗi sợ đó là cái chết, nhất là bị sát hại bởi người khác. Chẳng ai muốn mình không bị giết, không rời khỏi thế gian quá đột ngột. Việc không ai hại ta cũng được coi là một ân huệ lớn.

Hãy nhớ lại những hình ảnh khi con chim bị nhổ lông, một con cá bị cắt vây, con gà bị cắt cổ,… nhưng tưởng tượng xem nếu được thả ra thì chúng vui sướng biết bao. Chim được thả về bầu trời tự do, tung bay, hót líu lo. Cá thì về vùng biển trong xanh, bơi lội, vùng vẫy. Gà thì ăn thóc, chăm cho đàn gà con, cục ta cục tác mỗi ngày. Đó lại là những hình ảnh đẹp, hạnh phúc, tự do khi được thoát khỏi nạn bị giết hại. Chúng ta cũng sẽ như vậy, sẽ vui mừng và hạnh phúc khi được sống đời an nhiên. Vì vậy, ta không nên sát sanh sinh vật mà lại phóng sanh, hành động này là nghiệp lành đứng đầu trong Thập Thiện Nghiệp.

Việc ta không sát sanh sinh vật, cũng như không ăn thì ta tránh được hai tội nặng như sau:

  • Thứ nhất, là giết hại các vị Phật vị lai. (“Vị lai” có nghĩa là “chưa đến” hay thuộc về “tương lai”).
  • Thứ hai, là giết nhầm và ăn nhầm phải người trong dòng dõi, tổ tiên nhiều đời trước.

Chính vị Bồ tát đã dạy ta rằng: “Tất cả chúng sanh trên dương gian này đều là họ hàng, dòng dõi, tổ tiên, ba mẹ, ông bà của ta đã qua đời nay được sinh lại nhiều đời nhiều kiếp”

Nếu ta ghi nhớ và không sát sanh thì trong đời sống sẽ được mở rộng tấm lòng từ bi, từ đó hình thành thói quen, một nhân cách tốt để tu hành thành Phật, được nhận mười loại nghiệp lành. Được thể hiện rõ trong kinh Thập Thiện Nghiệp như sau:

  1. Được người đời yêu mến.
  2. Tấm lòng từ bi rộng mở với mọi người.
  3. Bỏ đi những thói xấu, giận hờn, ganh ghét.
  4. Thân thể và tinh thần luôn khỏe mạnh và phấn chấn.
  5. Trường thọ, sống lâu dài.
  6. Được các vị Thánh bảo vệ, giúp đỡ.
  7. Được ngủ ngon giấc, không gặp những điềm báo dữ
  8. Tránh được những thù oán
  9. Không bị đọa vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh).
  10. Sau khi chết đi, được lên cõi Trời bên Đức Phật.

Không trộm cắp

Không trộm cắp

 

Hưởng phước lành sinh ra trên cõi Trời.

Trộm cắp là hành động lấy đi những đồ vật không thuộc quyền sở hữu của mình, người sở hữu không cho mình lấy.

Quyền sở hữu là một quyền quan trọng, đây cũng là sự tự do riêng của mỗi người. Mạng sống của ta là tài sản quý. Nhưng nếu không có lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, những vật dụng cần thiết để sinh hoạt thì ta không thể nào sống được.

Vì thế cơm, áo, gạo, tiền phải có trong cuộc sống và đi kèm đó là sự nỗ lực làm việc của mỗi người. Để có được tài sản cá nhân trong hiện tại và tương lai cho mình và con cái, mỗi người đều phải trải qua những công việc rất cực nhọc để đạt được.

Tài sản cá nhân là mồ hôi nước mắt quý giá. Nếu vì một việc không hay xảy ra, bị mất đi tài sản thì phải đau khổ, phiền não. Cảm giác như vừa mất đi một phần sinh mạng của mình. Đã có rất nhiều người đã gặp tình trạng này dẫn đến mất ăn mất ngủ, thất vọng, sinh ra bệnh tật,…Vậy ai nỡ lòng mà trộm đi công sức của người khác cho đành.

Tính theo lẽ công bằng ta không lấy đồ của người khác, thì chẳng ai lấy của mình. Nếu bản thân không muốn bị buồn phiền thì mình cũng không được làm khổ ai cả. Xã hội này phải tôn trọng lẽ công bằng như vậy, nhờ đó mà mới tồn tại được.

Đối với những người trộm cắp, ý nghĩ xấu xa lấy đi của người khác cũng sẽ không nhận được điều tốt lành. Bị người đời khinh chê, sống đời tủi nhục, ảnh hưởng đến gia tộc. Những gì trộm được cũng sẽ mất đi, đó là hậu quả của việc coi thường lẽ công bằng.

Còn đối với những người thiện lành, lúc nào cũng sống đời an nhiên và thanh thản. Không phải lo lắng, xấu hổ bất cứ việc gì, bởi họ không làm điều ác. Chẳng có ai oán trách, thù hận. Một xã hội không có trộm cắp, không giành giật, không tranh giành sẽ là xã hội thái bình an lạc.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp ghi chép, nếu ta không trộm cắp sẽ được những phước lành như sau:

  1. Tiền của dư giả không bị cướp mất, không bị tịch thu, không bị thiên tai và gia đình ảnh hưởng đến tài sản.
  2. Được người đời tin cậy.
  3. Không bị lừa gạt, gian dối
  4. Được người đời khen ngợi về đức tính ngay thẳng.
  5. Tâm an yên, không lo sợ về bất cứ sự tổn hại nào.
  6. Khi qua đời sẽ được sanh ra trên cõi Trời.

Không tà dâm

Những suy nghĩ say mê sắc dục cách thái hóa hay còn gọi là dâm dục, được coi là cái nhân dẫn đến vòng sinh tử luân hồi. Đây là bức tường cản trở cho những vị Phật tử muốn tu hành để được giải thoát. Cũng vì điều đó, rất nhiều người trước khi xuất gia, phải trải qua giai đoạn tu tâm để trừ đi sự dâm dục trong thâm tâm.

Còn đối những người tại gia, thì chỉ phần nào ngăn đi tâm ý sắc dục đó. Chỉ khi nên duyên vợ chồng mới chính thức được sống chung, nhưng phải nhớ không ngoại tình, loạn lạc.

Trong đời sống gia đình, không được “chồng ăn chả vợ ăn nem”, sống chung với nhau phải giữ cho tổ ấm hạnh phúc. Khi chính vợ chồng hiểu nhau, yêu thương thì từ đó làm ăn phất lên, sự nghiệp ổn định, gia đình hai bên hòa hợp, mọi người xung quanh yêu quý.

Kinh Thập Thiện Nghiệp đã nói nếu giữ được mình được sẽ được 4 điều phước lành như sau:

  1. Sáu giác quan của cơ thể đều được đầy đủ.
  2. Tránh được những ưu phiền, u sầu.
  3. Không ai làm ảnh hưởng đến đời sống gia đình.
  4. Được người đời khen ngợi, yêu mến.

Không nói dối

Nói dối là một việc ai cũng đã làm, nhưng với dụng ý khác nhau. Đôi lúc lời nói dối để nói tránh đi, phần nào giúp đỡ người khác. Nhưng đối với Phật giáo dạy rằng, nói dối ở đây là làm trái đi những điều trong lòng. Ta nghĩ như thế nào thì cứ nói như vậy, sai là sai, đúng là đúng, không là không.

Có người nói rằng nói dối điều gì đó để đùa giỡn sẽ không có gây hại gì. Thực tế, lời nói dối đó vẫn có hại, đó là khởi đầu dẫn đến thói quen xấu cho bản thân. Từ đó là cho lời nói của bản thân không còn được coi trọng, không ai tin tưởng, kể cả khi đó là sự thật.

Nếu ta nói dối vì khi đó ta sợ hãi, nhục chí, lãng tránh đi dần dần ta có thói quen không nói sự thật, tội lỗi của mình và chẳng sửa chữa nó. Còn đối với nói dối để mang lại lợi ích cá nhân, hay khoe với người khác, đó là tội nặng. Người người buôn bán hay nói dối để khách mua hàng là điển hình, dễ thấy nhất. Đặc biệt, người nói dối rằng mình đã được chứng quả để lợi dụng niềm tin người khác sẽ mắc đại tội, bị đọa vào ba đường ác.

Trường hợp đặc biệt nói dối vì để cứu mạng sống hay giúp đỡ mới không tính là phạm tội. Nhưng ta cũng không nên quá lệ thuộc.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người nói lời ngay thẳng, sự thật sẽ được những phước lành như sau:

  1. Miệng nói người lời trong sạch, thơm tho.
  2. Người đời kính mến, tôn trọng.
  3. Chỉ nói những lời vui vẻ.
  4. Trí khôn, trí tuệ hơn người.
  5. Mọi điều mong ước đều thành sự thật trên cõi Trời.

Không thêu dệt

Không được nói những lời thêu dệt, ý chỉ đừng nói những lời đường mật, nói quá đà, không đúng với thực tế, không lợi dụng những câu nói đó để làm hại và làm điều sai trái. Người nói những lời nói thêu dệt là người có ý muốn dùng niềm tin của người khác để trục lợi cho bản thân. Khi sự thật bại lộ sẽ bị người đời chỉ trích, khinh bỉ, tránh xa để không ảnh lợi dụng.

Những người chơi đùa với niềm tin người khác rồi cũng sẽ bị hại như vậy. Tất cả của cải đạt được đều không lâu dài, tất cả rồi cũng sẽ mất, vì tất cả không phải do học cực nhọc làm ra.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không nói lời thêu dệt sẽ được ban phước lành như sau:

  1. Được những người uyên bác, có học thức yêu quý.
  2. Những câu hỏi khó khăn gặp phải đều có câu trả lời.
  3. Được các vị Thánh coi trọng trong cõi Trời.

Không thâm thọc

Ý chỉ những người sống hai mặt, đi nói xấu người khác cả hai bên. Đem những chuyện cá nhân của nhau ra dèm pha, chê trách, nhạo báng, khiến cho cả đôi bên thù ghét nhau, tóm gọn lại là trung gian khiến hai bên ác cảm. Những người không thâm thọc là người không có tâm ý xấu, trái lại giúp giảng hòa cả hai bên, cầu nối để thân thiết hơn.

Người không thâm thọc sẽ rất biết giữ sự riêng tư, cá nhân của người khác khi kể cho mình. Không mang chuyện của những người quen thuộc để bàn tán. Người này sẽ khiến mọi người yêu thương, hoàn thuận, khiến mọi người có niềm tin vào nhau, ai ai cũng vui vẻ. Những người hòa đồng như vậy sẽ được yêu quý, gặp việc khó đều được giúp đỡ.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không sống hai mặt sẽ được những điều lành như sau:

  1. Gia đình, làng xóm, láng giềng luôn sum tụ.
  2. Tình anh em, bạn bè luôn bền vững.
  3. Niềm tin vững mạnh
  4. Phẩm chất, nhân cách được quý trọng.

Không nói thô ác

Không nói thô ác

 

Phật dạy phải suy nghĩ trước khi nói và hành động.

Không nói thô ác là nói những lời dễ nghe, khuyên bảo nhỏ nhẹ, không thô tục, cọc cằn, không nói nói những lời khiến người khác đau buồn, tủi nhục,…

Người không nói lời thô ác sẽ không dùng từ ngữ để nói về gia đình, xúc phạm ai mà sẽ nói lời tốt đẹp khiến ai cũng vui vẻ. Lời lẽ được chọn lọc, dịu dàng, thể hiện sự từ bi, đạo đức, nhân phẩm đẹp của người đó. Người đời nghe đều tôn trọng.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không nói thô ác được những điều lành như sau:

  1. Lời nói khôn khéo, đúng ý, đúng mục đích.
  2. Lời đã thốt ra ai ai cũng tin theo.
  3. Lời nói không bị người đời coi thường mà còn được tôn trọng.

Không xan tham

Tiền bạc, nhan sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ là những ham muốn của con người, hay còn gọi là 5 món dục lạc. Đối với vài người đó là niềm vui hiện tại nhưng sau này là sự đau khổ. Ví như tham tiền, phải làm cực khổ kiếm tiền, đôi lúc làm những việc bất chính, khi không còn của cải lại đau xót vô cùng.

Còn tham sắc thì tốn tiền, chạy theo cái gọi là chuẩn mực, mất đi sức khỏe, tinh thần cũng sa sút, rồi lại đâm ra thù hằn người khác khi không được như ý muốn. Tham danh vọng thì làm trò cười cho thiên hạ, mất ăn mất ngủ, mất đi thể diện bản thân.

Tham ăn uống thì ăn đồ mỹ vị, ham ăn, ăn nhiều dẫn đến sức khỏe trì trệ, không sống thọ được. Tham ngủ nghỉ thì dậy trễ, tối thức, không làm việc dẫn đến người ngu đần, không sáng suốt. Ngũ lạc này cũng là cái nhân của vòng sinh tử luân hồi.

Cuộc sống của những người không tham lam vào 5 dục lạc này, sẽ không phải hao tổn tâm trí và sức khỏe. Chính họ sẽ được bình an, thanh thản, không phải lo lắng. Từ đó mà sức khỏe trường thọ, sống lâu.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không tham lam sẽ nhận được những phước lành như sau:

  1. Không mắc phải nghiệp xấu.
  2. Tiền bạc không bị trộm cắp, mất mát.
  3. Hưởng lợi phúc đức
  4. Mọi sự tốt đẹp sẽ đến, dù không mong cầu.

Không sân hận

Không sân hận

 

Đời sống vui vẻ, an lành, hạnh phúc, bình an nơi thâm tâm

Không thù ghét, giận hờn là giữ sự bình tĩnh, ôn nhu, điềm đạm trước mọi vấn đề. Thù ghét, hận ai đó là một thói xấu. Bởi đây như ngọn lửa có thể đốt cháy đi những mối quan hệ của mình và mọi người xung quanh. Nên ta phải tập thói quen bình tĩnh xử lý tình huống. Bản thân nên suy nghĩ trước khi hành động và nói. Từ đó được mọi người tôn trọng, yêu mến ta.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không sân hận sẽ được 8 điều phước lành như sau:

  1. Không phải sầu não.
  2. Không ganh ghét, giận hờn ai.
  3. Không cạnh tranh, tranh giành
  4. Giữ tâm ôn nhu, ngay thẳng.
  5. Tấm lòng từ bi như vị Phật
  6. Làm những việc lành, bác ái cho chúng sanh.
  7. Là người trang nghiêm, nghiêm túc được mọi người quý trọng.
  8. Là người có đức tính nhẫn nhịn, được sinh ra trên cõi Trời.

Không si mê

Không si mê

 

Bị đọa vào ba đường ác

Không nên si mê, u mê điều gì đó quá đáng, phải có những phán đoán rõ ràng. Điều gì trước khi thực hiện phải nhận định đã hợp lý, đúng đắn rồi mới làm. Khi kết luận phải nhìn khách quan, không nên chủ quan, không cố chấp theo sự hiểu biết cá nhân. Đặc biệt lưu ý không tin lời lẽ không xác thực, không tin lý thuyết suông, không mê tín dị đoan.

Người sống không si mê thường là người thông minh, uyên bác, tin vào nhân quả, tin vòng sinh tử luân hồi tồn tại. Bởi vì hiểu biết và kính sợ, nên sẽ làm những việc bác ái để tăng công đức. Từ đó đi vào con đường giải thoát mà Phật đang đợi.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, người không si mê sẽ được mười điều phước lành như sau:

  1. Gặp được sự lành và những người bạn tốt.
  2. Có niềm tin vào luật nhân quả, kính sợ chứ không làm điều ác.
  3. Tin vào Đức Phật, không tin vào ma quỷ và tà đạo.
  4. Sống ngay thẳng, có chứng kiến riêng.
  5. Đời sau được sinh ra trên cõi Trời, không bị đọa ba đường ác.
  6. Được ban phúc đức và trí tuệ.
  7. Tránh được mọi sự ác, chuyên tâm tu hành.
  8. Được loại bỏ khỏi những nghiệp dữ.
  9. Sống an bình, thanh thản bên Phật.
  10. Tránh được những nạn dữ.

Ý nghĩa của thập thiện nghiệp

Mười điều lành này được cho là cốt lõi để dạy cho các Phật tử sống theo đường lối ngay thẳng. Nhờ cách sống này mà tránh được những nghiệp dữ, gặp được những sự lành. Dần dần tăng công đức, sống đời tu hành để được tu thành chánh quả.

Làm việc ác ắt hẳn sẽ gặp điều dữ, còn sống thiện lành sẽ gặp những điều tốt đẹp. Sống sợ luật nhân quả, suy nghĩ kĩ trước khi hành động được xem là chân lý của Phật giáo. Nếu không sống như vậy sẽ bị tạo nghiệp, khi sinh ra vào kiếp sau sẽ bị đọa ba đường ác. Bản thân ta nên sống ngay thẳng để tạo những nghiệp lành. Tích đức để sớm sinh ra nơi cõi Trời bên Đức Phật.

Nếu như ta tu được theo mười điều này dạy sẽ mở rộng được tấm lòng từ bi, đương muôn dân kính trọng, là cầu nối cho Đức Phật với chúng sanh. Gieo càng nhiều hạt tốt thì sẽ nảy mầm được những sự lành, rồi thu hoạch được những quả đẹp, hưởng phúc nơi cõi Trời.

Tóm gọn lại đây là nền tảng vững chắc cho ta trên con đường tu hành, lẫn lối sống lành mạnh. Sống theo mười điều nghiệp lành sẽ giúp ta vui vẻ, thanh thản, an bình, không phải đau khổ, được sống hạnh phúc. Đó là điều đơn giản ai cũng mong muốn và sớm đạt được cảnh giới Niết Bàn.

Nếu bạn cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình thờ cúng tại gia có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ tư vấn giúp bạn có những không gian chuẩn tâm linh nhất.