mục cập nhật những thông tin liên quan đến các công trình tâm linh như nhà thờ họ, đình chùa, khu tưởng niệm hay khu trưng bày kỉ vật …

bồ tát thích quảng đức

Bồ tát Thích Quảng Đức là ai ?

Trong lịch sử Phật Pháp có ghi chép vào năm 1963 có vị hòa thượng đã tự thiên thân vì đạo. Người đó chính là Bồ tát Thích Quảng Đức đã gây chấn động toàn thế giới và làm thức tỉnh lương tâm của nhân loại. Nhờ sự kiện này, Phật giáo Việt Nam đã giải thoát khỏi áp bức, sự diệt vong. Cùng với đó là màu nhiệm về trái tim của Người. Bài viết này của thietkenhathoho.com sẽ giúp ta tìm hiểu rõ hơn về lý do mà người thiêu thân và bối cảnh thời kỳ đó.

Bồ tát Thích Quảng Đức là ai?

Bồ tát Thích Quảng Đức là ai?

 

Hình ảnh Bồ tát Thích Quảng Đức 

Thích Quảng Đức, tên thật của người là Lâm Văn Tức (1897-1963) là một nhà sư được kính trọng trong Phật giáo Việt Nam. Ông là người đã tự thiêu bằng xăng tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là ngã tư đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu). Tại Sài Gòn năm xưa, ngày 11 tháng 6 năm 1963 chính Người đã làm chứng cho Phật, lên án chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Hình ảnh chụp ông trong ngọn lửa đang cháy đã truyền đi khắp thế giới đã khiến chính quyền Ngô Đình Diệm bị chú ý gay gắt. Điều này cũng đã khiến giới báo chí và cả người dân trên toàn thế giới chú ý. Phóng Viên Malcolm Browne đã chụp bức ảnh Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu, cũng chính năm đó ông được nhận giải thưởng Ảnh Báo Chí Thế Giới. Cũng có nhà báo khác được nhận giải Pulitzer đó là David Halberstam vì ông đã tường thuật chi tiết về sự kiện. Sau đó, Ngài được hỏa táng nhưng trái tim vẫn nguyên vẹn dù đã thiêu 2 lần. Điều này được coi là biểu tượng của lòng từ bi hay còn gọi là xá lợi.

Nếu là ta sẽ không bao giờ có can đảm như vậy. Còn đối với Thích Quảng Đức đây lựa chọn rất quan trọng, chính hành động này sẽ cứu rỗi cho Phật Pháp. Mặc dù phải đánh đổi mạng sống, nhưng ông đã thành công tăng sức ép lên chính quyền Ngô Đình Diệm. Khiến cả thế giới đổ dồn sự tập trung, buộc Tổng thống phải đưa ra những chính sách nhằm giải thoát bản thân, xoa dịu Phật giáo.

Nhưng vì chính sự chậm chạp trong việc điều chỉnh, cải cách đã khiến chính quyền lại đào hố sâu hơn cho bản thân. Trong khi đó phong trào của nhân dân Việt Nam vẫn đang diễn ra, điều này đã khiến Ngô Đình Nhu (em trai Tổng thống) tấn công vào các chùa trên cả nước.

Một lần nữa các nhà sư noi theo Bồ tát Thích Quảng Đức đã tự thiêu thân để làm chứng vì đạo. Chính bởi sức ép của Phật giáo, Công giáo, lực lượng nhân dân Việt Nam đã thành công lật đổ chính quyền và hai anh em nhà Ngô Đình Diệm bị ám sát. Thành công to lớn này cũng nhờ vào hành động cao cả của Hoàng Thượng Thích Quảng Đức. Nhờ vào sự can đảm, yêu thương dành cho chúng sinh, làm chứng cho Phật đã xóa bỏ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa và dẫn lỗi cho Phật giáo khỏi khủng hoảng.

Cuộc đời và sự nghiệp

Bồ tát Thích Quảng Đức là tấm gương to lớn mà các Phật tử nên noi theo. Không chỉ dừng lại ở sự kiện màu nhiệm năm 1963 mà cả từ thuở còn nhỏ của Người. Chính việc tu tâm từ nhỏ, tin vào Phật đã giúp cho Người trang bị cho mình ý chí lớn không màng mạng sống.

Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu thân năm 1963

 

Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu thân năm 1963

Tiểu sử sơ lược về Hòa thượng thích quảng đức

Ông được sinh ra tại thôn nhỏ tên là Hộ Khánh tại tỉnh Khánh Hòa. Người sống chung trong gia đình có 9 người, là con trai của ông Lâm Hữu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương. Từ năm lên 7, Người đã được gia đình cho đi xuất gia. Nhờ việc được tu hành từ sớm nên năm 15 tuổi Người thọ giới Sadi, năm 20 tuổi thọ giới Tỳ kheo. 

Người có pháp danh là 是水 (Thị Thủy). Ngài đã giữ nhiều chức vụ khác nhau trong giáo hội Phật giáo như: trụ trì chùa Phước Hòa là trụ sở đầu tiên của Phật học Nam Việt, Phó trị sự và Trưởng ban lễ nghi của Giáo hội Tăng già Nam Việt,… Người không chỉ góp sức thông qua các nhiệm vụ trên mà còn có công lao xây dựng và trùng tu rất nhiều ngôi chùa ở Việt Nam ta thời bấy giờ.

Từ khi là một cậu bé 7 tuổi đến khi trưởng thành dường như là cả một đời Người đã dành cho Phật. Người luôn cố gắng cho đi như Đức Phật giảng dạy, làm lợi cho chúng sanh, làm gương để Phật tử noi theo, là ánh sáng soi dẫn cho những nhà tu hành khác. Đến năm 1958, vì tuổi già nên Người đã xin thôi chức vụ để dành hết thời gian tu tâm.

Sự kiện thiêu thân – trái tim màu nhiệm

Đúng vào ngày 11/06/1963, Người đã ngồi trong xe theo như đã sắp xếp từ trước. Xe của người dẫn đầu, thực hiện buổi diễu hành rước di ảnh của các vị Thành đã tử đạo. Khi đến ngã tư, Người xuống xe cùng với áo đã tẩm xăng từ trước. Người không lo sợ mà châm lửa tự thiêu chính mình. Ngọn lửa nhỏ kết hợp với xăng ngày càng cháy lớn hơn, nhưng Người bên trong vẫn an tĩnh chắp tay trước sự chứng kiến của tất cả mọi người. Lửa dần tàn, Hòa Thượng cúi đầu như đang chào, rồi từ từ ngửa ra sau và tay vẫn còn bắt ấn.

Hành động của Ngài đã làm thức tỉnh đức tin vào Phật của các vị Tăng ni, Phật tử và kể cả toàn thế giới. Chính nhờ vào việc tu tâm, lòng từ bi của Người dành cho chúng sanh mà giúp ta thấy rằng lửa đốt cháy thân xác không đau bằng mất đi niềm tin, mất đi Phật giáo. Đối với người phàm như ta, chỉ cần vết bỏng đã là đau đớn nhưng người vẫn than nhiên vì nơi Người sẽ đến là bên Đức Phật.

Sau đó, Người được đưa đi làm lễ hỏa thiêu. Với sức nóng hơn 4.000 độ C của lò hỏa thiêu nhưng trái tim người vẫn còn nguyên vẹn. Qua cả 2 lần hỏa thiêu mà trái tim lại không bị đốt cháy điều này là biểu hiện của trái tim xá lợi. Trái tim của lòng từ bi, hiện tượng màu nhiệm tâm linh làm chứng cho Phật giáo. Điều này ứng nghiệm với lời Ngài nói khi còn sống:

  • Một là, sau khi tự thiêu sẽ còn một vật vẫn tồn tại (trái tim Người) – thành quả cả đời tu hành của Ngài.
  • Hai là, nếu chết tư thế nằm ngửa thì Ngài sẽ thành công giành quyền bình đẳng cho Phật giáo.

Và những lời tiên tri đó đã thành hiện thực, cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 đã làm cho chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ hoàn toàn, Phật giáo thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng.

Trái tim bất tử của Bồ tát Thích Quảng Đức chính là màu nhiệm đặc biệt của Phật Pháp, đó thành quả của nếp sống tu hành, cái tâm từ bi vì lợi chúng sanh của Ngài. Cũng chính điều này đã soi sáng cho rất nhiều vị tu hành khác noi gương, vượt qua suy nghĩ đau khổ ở đời mà làm chứng cho Phật. Những điều Phật dạy ta không còn chỉ trong sử sách, giáo lý giảng dạy mà phải là màu nhiệm hiện thực ở đời. Hình ảnh thể hiện cho việc Phật thật sự tồn tại, thế giới tây phương cực lạc là có thật, nhân gian này là vô thường.

Bên cạnh đó, sự kiện này còn gây chấn động đến dư luận toàn thế giới. Đại nguyện của Người đã thực hiện được, ngọn lửa thiêu thân đã soi sáng dẫn lối. Sự hy sinh đánh dấu cho quyền lợi của con người, quyền lợi của Phật giáo và mang lại hòa bình cho Việt Nam và toàn cầu.

Người để lại gì cho hậu thế

Người để lại gì cho hậu thế

 

Trái tim món quà cho hậu thế

Người để lại hiện vật rõ ràng nhất đó chính trái tim bất tử của Người. Sau đó, trái tim của Người đã được đặt trên cốc thủy tinh và được cất giữ tại chùa Xá Lợi. Đối các Phật tử tin vào điều thiêng liêng này, một lòng thờ kính Người.

Nhưng vào ngày 21/8/1963 lực lượng quân Việt Nam Cộng Hòa đã tấn công vào chùa, muốn cướp đi bình tro của Ngài. Biết trước được sự việc sẽ xảy ra, 2 nhà sư đã chạy trốn và mang theo bình tro của Bồ tát. Còn trái tim đã bị bọn lính lấy mất. Nhưng có thông tin cho rằng trái tim bị đánh cắp là giả.

Cho đến năm 1975, trái tim đã được Ngân Hàng Pháp Quốc trao trả. Năm 2017, được chuyển về Việt Nam Quốc tự. Trái tim của người không phải như người phàm được làm bằng xác thịt. Trái tim xá lợi này kết hợp từ lòng từ bi, yêu thương chúng sanh, chứa đựng lòng tin yếu vào Phật.

Không chỉ có trái tim bất diệt là món quà Ngài để lại cho hậu thế, mà còn có niềm tin mãnh liệt dành cho Phật. Không phải là sự vật, hiện tượng hữu hình như trái tim xá lợi. Điều này ẩn sâu trong mầu nhiệm của Người. Người dùng thân soi sáng, đánh thức các Phật tử nhờ đó mà Phật giáo vững mạnh hơn. Thức tỉnh ý chí đấu tranh cho sự công bằng Phật giáo giúp một phần đánh thắng chính quyền Ngô Đình Diệm đầy tàn ác, giành hòa bình cho đất nước. Tinh thần bất khuất của dân tộc kết hợp với niềm tin tôn giáo.

Lý do Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu thân

Lý do Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu thân

 

Cuộc biểu tình của các Phật tử

Từ lâu Việt Nam ta đã theo đạo Phật, chiếm đến 70-90% dân số. Nhưng tình hình lúc đó Ngô Đình Nhiệm được Mỹ đưa vào Việt Nam lại theo Công giáo. Từ lúc đó, chính quyền đã đưa ra những chính sách thiên vị Công giáo từ việc cắt đất đai đến giảm thuế. Ngoài ra, nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa cũng cải sang đạo Thiên Chúa giáo. Dần dần khiến cho quân đội phụ thuộc vào tôn giáo này. Công giáo thì được nâng niu trong khi đó Phật giáo bị hạn chế trong việc tổ chức cộng đồng. Sự bất bình đẳng của chính quyền này ngày một tăng cao, gây rất nhiều điều khó khăn cho Phật giáo. Gay gắt tăng cao đỉnh điểm khi các Phật tử tổ chức buổi biểu tình nhân dịp Phật đản tại Huế, và đã có vụ nổ súng diễn ra. Cuộc nổ súng đã khiến 9 người thiệt mạng, trong đó theo như ghi chép có 5 người bị xe bọc thép bắt mất đầu. Tổng thống Ngô Đình Nhiệm thì không chịu trách nhiệm, quy trách nhiệm cho “Việt Cộng”. 

Chính vì những điều vô lý, đối xử bất công, kể cả việc treo cờ của Phật giáo bị cấm. Điều này đã khiến các Phật tử không thể ngồi yên. Đối với họ đây là nguy cơ khủng hoảng tiêu vong của Phật Pháp. Nhìn thấy chúng sanh đang hi sinh, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã viết ra đại nguyện của mình và xin bề trên thiêu thân làm chứng vì đạo. Những ngày cuối đời Ngài dành thời gian thiền định tại chùa Ấn Quang, tụng kinh vì muốn tự nguyện dùng thân mình làm vật phẩm cúng dường chánh pháp.

Vì sao người được coi là Bồ Tát

Vì sao người được coi là Bồ Tát

 

Tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức

Sau sự kiện của Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn. Đã làm cho chấn động toàn cầu, thức tỉnh tâm hồn nhân loại thế kỷ XX. Chính hành động đó của Ngài được suy tôn lên thành bậc Bồ tát.

Bồ tát là Người có tấm gương sáng chói của việc tu hành siêng năng, để cho Tăng ni và Phật tử noi theo. Bởi chỉnh việc tu hành chuyên tâm mới giữ gìn được Tam bảo vững mạnh, lâu dài, làm lợi cho chúng sanh.

Qua sự kiện thiêu thân của Bồ tát Thích Quảng Đức, mong ta sẽ không chỉ vì thấy được màu nhiệm hữu hình mà tin vào Phật. Mà mong rằng ta sẽ thấy được nhiều giá trị tốt đẹp ẩn sâu bên trong Phật Pháp, từ đó ta sẽ mang lòng từ bi mình mang đi khắp nơi. Phật giáo luôn là tôn giáo được coi trọng ở mọi nơi.

Bạn có nhu cầu thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian chuẩn tâm linh nhất.

tây phương cực lạc là nơi nào

Tây phương cực lạc là nơi nào ?

Cõi Tây phương cực lạc là nơi Phật A Di Đà đã tạo ra để cho chúng sanh sau khi được giác ngộ sẽ đến nơi này cùng Người. Đây cũng là nơi mà các nhà tu hành luôn mong muốn đến, nơi này không còn những đau khổ của dương gian, thanh thản, tâm tịnh, cảnh vật nơi đây là theo tâm của chúng ta mong ước. Nhưng thế giới này có thật sự tồn tại hay không? Cảnh vật nơi đây sẽ ra sao? Để biết thêm những thông tin về Tây phương cực lạc hãy cùng thietkenhatho.com tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Tây phương cực lạc là nơi như thế nào?

 

Tây phương cực lạc là nơi như thế nào?

Thế giới tây phương cực lạc

Đa số những mọi người đều cho rằng đây chỉ là một thế giới do con người ảo tưởng, Phật đã vẽ thêm vào để con người ta tin vào. Nhưng Đức Phật là người từ bi, không quan tâm đến những lời bàn tán bên ngoài. Chỉ ta hiểu và biết thì ta sẽ tin vào những lời Người dạy. 

Những người càng sống với tâm thanh tịnh, quên đau khổ ở đời thì ngày càng dễ thấy được nơi mà Phật đang đợi ta. Đó chính là thế giới có thật. Để hiểu chi tiết hơn ta cùng nhau tìm hiểu dựa trên hai góc nhìn khoa học và Phật giáo như sau:

Theo góc nhìn của Khoa học

Chắc chắn nếu ta đứng theo góc nhìn khoa học thì cõi Tây phương cực lạc không thực sự tồn tại. Nhưng theo thực tế có rất nhiều hiện tượng tâm linh mà chính các nhà khoa học không thể phân tích được, vẫn rất nan giải. Dù là quá khứ hay ở hiện tại thì khoa học và tâm linh luôn trái ngược nhau mà luôn có chừng mực. Cả hai bên đều có những cách suy nghĩ, phân tích khác nhau nhưng bổ trợ cho nhau để giải thích cho những hiện tượng bí ẩn trên thế giới.

Theo một số thông tin ghi chép lại rằng, khi khoa học vẫn chưa phát triển như ngày nay. Chính Đức Phật đã nhìn nhận ra được trong một bát nước có rất nhiều vi sinh vật đang tồn tại. Cũng có nơi nói rằng Phật đã có thể nhìn thấu được thế giới khác dù ở một nơi rất xa nơi người đang sống, những gì người thấy được đến con người không thể nghiên cứu ra được đến tận những năm thế kỷ 20.

Ta có thể thấy rằng cho đến ngày nay khoa học vẫn không được xem là điều mà con người tin tưởng hoàn toàn, mà vẫn có những sai sót, những điều bí ẩn chưa giải ra. Nhưng với Đức Phật, đôi mắt của Người có thể nhìn ra những điều mà khoa học chưa tìm ra được. Tuy nhiên, việc con người muốn tin hay không đó vẫn phụ thuộc vào niềm tin của ta.

Tầm khoảng những năm gần đây, con người đã có rằng có thế giới khác vẫn tồn tại, có những người như chúng ta sống ở hành tinh gần ta trong hệ mặt trời. Đó là đĩa bay của người ngoài hành tinh. Con người bắt đầu nghi ngờ là khi thấy được một chiếc đĩa bay đã rơi xuống một nơi ở nước Philippin. Chính điều này các nhà khoa học đã cố gắng tìm hiểu để giải thích, và tìm nơi họ đến từ đâu. Tuy nhiên đến này đó vẫn là ẩn số, các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được điều này. Thời đại ngày nay đã ngày càng phát triển hơn, máy móc tinh tiến hơn nhưng vẫn không thể biết chính xác được sự tồn tại của thế giới khác ngoài Trái Đất. Có tận bao nhiêu thế giới khác ở hệ Mặt Trời này, có cả thế giới Tây phương cực lạc không? Vì chính những điều này mà ta vẫn chưa thể có những câu trả lời để khẳng định thế giới này có tồn tại hay không tồn tại.

Theo góc nhìn của Phật giáo

Theo góc nhìn của Phật giáo.

Khi qua đời con người đi về đâu

Phật tử là người luôn có niềm tin dành cho Đức Phật, chính bản thân họ cũng phải được học hiểu những giáo lý để biết Phật Pháp mà Người dạy. Họ cũng biết rằng thế giới Tây phương cực lạc là nơi linh thiêng mà học muốn đến, đây là mong ước cuối cùng của họ để diệt đi đau khổ của vòng luân hồi sinh tử.

Mặc dù niềm tin của những Phật tử rất mãnh liệt nhưng với đôi mắt của người phàm như ta không thể nhìn thấu được. Nếu đến với thế giới đặc biệt không có những buồn đau như cõi trần, là nơi đầy sự an tịnh, con người ta nhìn nhận ra được liền, thì có lẽ ai cũng có thể tu hành thành công một cách dễ dàng. Để có thể thấy được đến được cảnh giới này, những vị tu hành đã phải rất cố gắng, kể cả những vị La hán đã phải tu luyện và lắng nghe lời Phật. Việc noi gương Đức Phật, nghe lời dạy, tịnh tâm là những điều cần có để có thể thấy được những mầu nhiệm mà Ngài bày tỏ.

Khi tu hành những Phật tử dùng tâm thành kính của mình có thể cảm nhận được thế giới này, càng thành tâm càng nhìn nhận rõ ràng. Chính việc tu tâm niệm Phật là điều giúp ta khi không còn ở đời này sẽ được đến nơi mà Phật A di đà đang đợi ta đó chính là Tây phương Tịnh Độ (Tây phương cực lạc). Nếu ta đặt lòng tin vào những thứ tốt đẹp thì chắc chắn ta sẽ gặp được những điều đẹp đẽ. Chính lòng tin ta sẽ giúp ta biết rằng thế giới này có tồn tại. Đây chính là thử thách cho những người Phật tử để có lòng tin vào Phật Pháp.

Cõi trần và Tây phương cực lạc sẽ khác gì?

 

Cõi trần và Tây phương cực lạc sẽ khác gì?

Tây phương cực lạc nơi Đức Phật A di đà trị vì

Thế giới Tây phương cực lạc thường được gọi bằng những tên khác là An lạc quốc hay Tây Phương Tịnh Độ, đây là nơi mà Đức Phật A di đà đã tìm ra. Thế giới này được tạo dựng ra bằng sự chiêm nghiệm, thiện lành mà Đức Phật A di đà cố gắng giúp những Phật tử có thể coi đây là điều hướng đến. Chính vì có sự giúp đỡ, soi sáng đó mà giúp cho những nhà tu hành vững vàng niềm tin hơn. Nơi đây tạo ra cũng chính nhờ sự kiên trì niệm kinh, kiên trì giúp chúng sanh vượt qua đau khổ, lòng yêu thương của Đức Phật. Bởi vậy mà ta đã có nơi có thể hưởng một đời an tịnh sau khi đạt ngưỡng Niết Bàn.

Vô lượng thọ kinh hay Quán vô lượng thọ kinh và bộ kinh về Phật A di đà là thường nhắc đến Tịnh độ rất nhiều. Đối với những nhà tu hành hay kể cả Phật tử đều học theo kinh A di đà. Họ tin rằng nhờ việc học hiểu, niệm kinh sẽ giúp họ có thể dần dần hiểu ra những bài học sâu kín mà Phật nhắn nhủ lại, ngoài ra có thể nhìn nhận được phần nào thế giới Tịnh độ

Theo những bài giáo lý Phật dạy lý do có tên Tây phương cực lạc là bởi vì nơi này nằm ở hướng Tây. Nơi đây tràn ngập ánh sáng rực rỡ bởi hào quang của Phật A di đà tỏa ra. Thế giới ấy sẽ ngập tràn hương thơm như những bông sen nở rộ và châu báu quý giá. Chính ta sẽ cảm nhận ra được ta muốn được sinh ra ở thế giới này, được sinh ra bởi hoa sen, những điều ta mong ước đều là hiện thực, không còn theo quy luật sinh lão bệnh tử. Nếu muốn đến thế giới này, ta phải cố gắng tu luyện để được chính quả. Hạnh phúc lớn nhất không phải là châu báu quý giá mà là những lời dạy vàng ngọc của Đức Phật sẽ giảng cho ta, ta sẽ cùng ở bên người với hai vị Bồ tát ( Quan Thế Âm, Đại Thế Chí).

Đây là nơi khác hoàn toàn so với đời sống trần thế của ta đầy sự đau khổ, oán hận, đau thương, dục vọng, tiêu cực. Chính vì vậy mà có rất nhiều Phật tử luôn muốn bản thân mình đi theo con đường tu hành để đến đích hằng mong ước. Nơi này định nghĩa hạnh phúc khác hẳn sự hạnh phúc mà người phàm ta định nghĩa. Ta nên tu luyện từ những việc nhỏ nhặt đến việc lớn, noi theo Phật thì sau khi hồn lìa khỏi xác cũng là lúc ta chấm dứt vòng luân hồi.

Hình dáng của Tây phương cực lạc như nào?

Hình dáng của Tây phương cực lạc như nào?

Đài sen tỏa sáng nơi Tây phương cực lạc

Tây phương cực lạc là mong nơi của rất nhiều Phật tử muốn đời này tu hành để nhanh đến bên Đức Phật. Nhưng có khi nào ta thắc mắc rằng cảnh vật, hình dáng nơi đó như thế nào? Nơi đó có như Trái Đất ta không? Nguồn thức ăn nuôi dưỡng ta là gì? Ngoài câu hỏi thế giới có tồn tại không thì vẫn còn rất nhiều câu hỏi khác. Vậy ta hãy cùng nhau tìm hiểu về Thế giới Tịnh Độ này.

Bảo địa

Cõi Tịnh độ là nơi bao trùm bông lưu ly trong suốt. Có rất nhiều kim cương nâng đỡ phía dưới. Hình dạng của những tràng kim cương đều là hình tám góc cân nhau, mỗi mặt đều có những châu báu khác nhau. Mỗi châu báu đó khi ánh sáng chiếu vào lại phóng ra những tia sáng. Mỗi một tia sáng đó lại có tới 84 000 màu khác nhau, chiếu vào nơi đây lưu ly như những tia sáng của mặt trời tỏa sáng. Nơi đây thì bằng phẳng, các khu vực và đường xá đều được trang trí bởi những dây vàng. Những dây vàng này đều tỏa ra rất nhiều tia sang với như màu sắc khác nhau. Tia sáng đó tỏa ra với nhiều hình dạng như: hoa, sao, trăng,… chúng kết hợp với nhau tạo nên một bầu trời sáng chói giữa không trung. Bên cạnh đó sẽ là những đài hoa với rất nhiều như nhạc khí khác. 

Bảo thọ

Phía trên của bảo địa sẽ có rất nhiều cây Chiên đàn hương, Kiết tường quả. Được sắp xếp ngay ngắn và thẳng lối. Tất cả nhánh cây lẫn lá, bông, trái để được cắt tỉa cách chỉnh chu nhất. Những cây đó đều cao như nhau theo quy tắc cây 8.000 do tuần (do tuần là 19,5 km). Chất thất bảo đó chính thân, lá, hoa, trái của cây đó. Có những cây sẽ được làm thuần từ vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, chơn châu. Cũng có những cây gốc được làm bằng vàng, còn lại thì được làm bạc hay cả vàng được gọi là cây 2 chất báu. Có loại cây gốc là vàng, thân lại là bạc, nhánh thì là lưu ly, còn lại được chia ra đều theo vàng, bạc, lưu ly thì đây gọi là cây 3 chất báu. Chính vì điều này cũng sẽ có những cây 4 chất báu, 5 chất báu, 6 chất báu, 7 chất báu được sắp xếp xen lẫn nhau mà tạo thành một cây.

Khi ta ở trong cõi Tịnh Độ ta sẽ nhận ra rằng tất cả các cấu đều hiện rõ bóng trong cây như ở trong gương. Mỗi lá đều rộng 25 do tuần (487,5km) với hàng nghìn màu và ánh sáng phát ra, nhưng gân lá như chuỗi ngọc.

Bên cạnh những chiếc lá sẽ là những bông hoa phủ lên sắc vàng, thật rực rỡ như những vòng lửa. Trên vòng lửa đó sẽ là bình quý của Thiên Đế đó chính là trái của thất bảo. Trái đó sẽ tỏa ra những tụ ánh sáng vô lượng cùng bảo cái. Và trong đó sẽ chiếu lại tất cả những việc Phật trong thế giới Cực Lạc đó.

Sẽ có bảy lớp là lưới liên kết với chơn châu và được giăng trên mỗi bảo thọ. Cung điện sẽ nằm bên trong mỗi khoảng lưới đó tạo một không gian hoàn toàn rất xinh đẹp. Ở trong cung điện đó cũng sẽ có Thiên đồng, sẽ được đeo chuỗi năm trăm hạt. Mỗi một hạt ma ni đó sẽ chiếu sáng đến hàng trăm do tuần, khi nhìn cảnh đó sẽ như trên cây đang tỏa ánh hào quang vô cùng rực rỡ.

Bảo trì

Thế giới Tây phương cực lạc khắp nơi đều có những ao tắm, được làm bằng thất bảo, phía dưới đáy ao sẽ được trải kim cương với nhiều màu sắc khác nhau. Mỗi một ao đều rộng trăm ngàn do tuần như biển cả to lớn.

Đặc biệt mỗi một ao đều có tới 60 hoa sen thất bảo, mỗi bông có thể to đến 12 do tuần, đủ màu sắc chiều xung quanh ao. Bên trong áo tắm sẽ là bát công đức, màu là thất bảo, mặt nước lên xuống theo những cọng sen chảy vào bông và cách hoa. Tiếng nước chảy tạo nên âm thanh tịnh tâm như một phép màu. Quan cảnh lúc đó sẽ là những ánh sáng được hóa thành những loài chim xinh đẹp bay lượn, hót cúng với lời niệm, lời ca tụng Phật.

Những làn sóng trên mặt nước thì gợn lăn tăn một cách dịu dàng như lời ba ngôi báu, ba la mật. Khiến người nghe được âm thanh này tâm liền tịnh lại, không còn phải suy nghĩ về những bộn bề chỉ còn tâm và chính bản thân. Khi bước vào ao tắm, thì có thể làm theo ý mong muốn. Nếu muốn áo nước thấp thì sẽ thấp, nếu muốn đến ngang bụng sẽ tới ngang bụng. Khi tắm chính thân thể người đó sẽ trở nên thoải mái hơn, nhẹ nhàng, tinh thần vui vẻ, sáng suốt.

Bảo lâu

Khi ta ở áo tắm sẽ thấy bốn phía xung quanh là những bậc thềm được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, … tạo thành. Phía trên đó sẽ có rất nhiều những cung điện đầy màu sắc. 

Cả những tòa lâu đài đều làm bằng bạc, vàng, lưu ly, pha lê, … khi nhìn vào đó là một nơi đẹp mỹ mãn tráng lệ.

Nơi giảng dạy, tịnh xá và cung điện của Đức Phật A di đà, hai vị bồ tát của vfa gôm hàng nghìn cung điện khác của những người đến với tây phương cực lạc. Có những thứ thứ có thể trôi nổi trên những đám mây, cao lớn khác nhau. Tuy vào công đức tu hành càng dày hay ít thì sẽ có những chỗ ở to nhỏ khác nhau. Tất cả đều được bình đẳng vào việc tu hành của ta.

Xung quanh đền đài là có rất nhiều loại nhạc khí khác nhau trong khung cảnh trang nghiêm. Gió thì rung nghe nhàng khiến những nhạc cụ đó hòa vang thành tiếng.

Bảo tọa

Đây chính là chỗ ngồi quý báu nhất tại cõi cực lạc. Người ở tại thế gọi chiếc ngôi báu này chính là bảo tọa. Người tu hành để thành Phật cũng gọi chỗ ngồi của Đức Phật là bảo tọa. Người được giác ngộ thành Phật thì cái ngôi đó cũng sẽ là bảo tọa.

Tòa sen sẽ có tổng cộng là 84 000 cánh, rộng 250 do tuần, xen lẫn với 100 màu khác nhau. Trên cánh sen sẽ có tận 84 000 gân phóng ra thêm 84 000 tia sáng. Xen vào mỗi cánh hoa đó sẽ là những hạt châu ma ni, mỗi hạt là phóng ra ngàn tia sáng. Các tia sáng đó kết hợp lại với nhau tạo nên một hình cây lọng. Đài sen thì không khí trang nghiêm với sự trang trí rất nhiều như hạt kim cương, hạt ma ni và cả những lưới đính chơn châu.

Phía trên đài sen đó sẽ là 4 trụ báu, có những mảnh lưới bao trùm phía trên. Trong mảnh lưới báu đó có 500 hột bảo châu, mỗi hốt phát ra 84 000 tia sáng, khiến cho khắp nơi bảo địa hóa ra đài kim cương, lưới chơn châu, những cây hoa xinh đẹp tỏa sáng,… tích tụ lại trở thành Phật sự trong Cõi tây phương cực lạc.

Sau những bài giảng của Đức Phật và vị Bồ tát thì ánh sáng vi diệu nơi tòa sen báu sẽ lớn đẹp hơn, vì đây là lý do Người tạo ra nơi này cho chúng sinh hướng đến.

Hy vọng bài viết đem đến cho quý độc giả nhiều thông tin bổ ích nếu bạn có nhu cầu thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình thờ cúng tâm linh khác có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ tư vấn giúp bạn sở hữu những không gian chuẩn phong thủy nhất.

cúng dường là gì?

Cúng dường là gì?

Cúng dường thường được biết đến trong Phật Pháp là một lễ nghi quan trọng, thể hiện được lòng thành kính cho những vị linh thiêng. Nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được ý nghĩa và cách thức cử hành đúng đắn. Để từ đó có một nghi lễ nghiêm trang, tôn kính dành cho các vị. Chính bài viết này của thietkenhathoho.com sẽ là nơi bạn có thể học hỏi và chuẩn bị tốt những nghi thức để cúng dường làm lợi, tích đức cho bản thân.

Khái niệm về cúng dường

 

Khái niệm về cúng dường

Cúng dường lên Đức Phật

“Cúng dường” là một từ mang hàm nghĩa là một món ăn tinh thần lẫn vật chất để nuôi dưỡng các bậc đã có công sinh thành ta như ông bà, cha mẹ, tổ tiên,…người đã truyền những đạo lý làm người cho ta. Phật giáo cũng tuân theo quy luật lẽ phải này mà có ba ngôi báu đó là Phật, Pháp, Tăng sẽ giúp cho thâm tâm ta vững vàng không còn những dục vọng, tiêu cực. Ngọn lửa của vòng luân hồi đã truyền cho ta từ kiếp trước, đó là những người trong dòng dõi gia đình từ nhiều đời, nhiều kiếp người trước đó truyền lại. Hành động cho đi để nuôi dưỡng các vị tổ tiên của ta chính là cúng dường.

Ý nghĩa của cúng dường trong Phật Pháp

Theo thực tế, chính ba mẹ là người đã tạo ra một đứa bé đó chính là ta sau suốt chín tháng mười ngày. Ba mẹ là người nuôi ta lớn khôn, dạy dỗ ta nên người, là người thầy đầu tiên, người kiếm những đồng tiền để cho ta học, rồi khi trưởng thành lấy vợ và lấy chồng, sự nghiệp vững vàng. Đây là những công ơn quá lớn lao mà ta không thể nào viết hết trong một trang giấy, vì điều này ta phải có trách nhiệm phụng dưỡng cho cha mẹ lúc đau ốm, bệnh tật của tuổi già,…Sự lễ nghĩa với đấng sinh thành cũng là cúng dường. Tục ngữ dân gian Việt Nam ta cũng đã có câu “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, bởi vậy phận làm con cái phải cố gắng chu toàn chăm sóc cho ba mẹ. Ta phải luôn phụng dưỡng đấng sinh thành như cách đã quan tâm, yêu thương ta từ lúc ra đời đến bây giờ.

Về từ “bố thí” hay “cúng dường” đều là một, không phân biệt sự khác nhau. Tuy đều là một hành động đẹp, nghĩa tử. Nhưng hai từ này sẽ phù hợp trong từng trường hợp khác nhau. Đối với bố thí sẽ phù hợp với thọ nhận-ý chỉ lòng tốt muốn chia sẻ, cho đi. Còn với 

Cúng dường đó là sự tôn kính, ghi nhớ công ơn dành cho những người bề trên. 

Ta hãy nhớ rằng “Bố thí” không phải mang với thái độ, hành động chê bai. Càng không phải là sự ghét bỏ, khinh chê. Mà từ này có ý nghĩa là “cho, tặng, chia sẻ với mọi người”. Đây là hành động với ý chỉ ta hãy giúp đỡ mọi người với lòng nhân ái. Hãy cho đi, san sẻ với mọi người làm lợi cho bản thân và cho mọi người.

Việc ta yêu thương, giúp đỡ, phụng dưỡng với ba mẹ của chính mình cũng là một hành động “cúng dường”. Nhờ ta cúng dường mỗi ngày từ đó cũng sẽ nuôi dưỡng Tam Bảo để Tam Bảo vững vàng tồn tại làm lợi ích cho chúng sinh nơi nhân gian này.

Cúng dường tam bảo

Cúng dường tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) nên được nuôi dưỡng vì 3 mục đích sau đây:

  • Để cho Tam bảo mãi được tồn tại để làm lợi cho chúng sanh.
  • Phát triển Tam bảo để thích nghi với từng thời đại, luôn theo kịp không bị mai một và lạc hậu.
  • Cuối cùng, giúp cho Tam Bảo tránh khỏi những thế lực muốn phá hoại, mưu hại.

Vì sao nên cúng dường tam bảo? 

Vì sao nên cúng dường tam bảo? 

 

Bàn thờ Phật

Việc cúng dường là một điều rất dễ để có thể làm được, không phức tạp và quá tốn kém. Việc ta cần làm đó chính là phải có một bàn thờ, không cần phải chi trả tiền của quá nhiều, chỉ nên làm đơn giản. Chúng ta có thể dùng bất cứ vật phẩm nào để có thể cúng dường cho Phật. Thường theo quy tắc, buổi sáng sẽ dâng vật phẩm lên bàn thờ để cúng dường, tới tối sẽ thu dọn lại. Ta nên làm theo đúng quy cách như này, đây là điều đơn giản nhưng ta phải có cái tâm thật đúng đắn để thể hiện lòng thành tâm dành cho Phật. Chính vào những điều giản dị và tâm đúng đắn thì khi ta dâng những vật phẩm cúng dường thì ta sẽ có cho mình nhiều công đức hơn. Dần dần tích lũy lại công đức ta sẽ ngày càng lớn mạnh hơn. Ta có thể thấy được tiền bạc đôi lúc không qua cần thiết chỉ cần tâm ta trong sạch thì có thể sinh lợi cho ta.

Cúng dường ba ngôi báu hay Cúng dường tam bảo nên trở thành một phần của chính công phu tu tập trong cuộc sống hằng ngày. Ta phải luôn chú ý rằng, phải chú ý lau sạch bàn thờ, giữ sạch sẽ, không nên để bụi bám vào, mỗi ngày nên lau chùi sạch sẽ. Tập thói quen mỗi buổi sáng thức dậy phải rửa tay trước khi mang một bình nước đến trước nơi mà ta thờ Phật. Phải lau sạch và úp những chén nước đã để trên bàn thờ hôm trước, và sáng hôm sau chỉ mở từng chén lên sau đó rót nước vào. Khi ta rót nước như vậy ta cũng phải tập rót với thái độ trang nghiêm và có thể đọc minh chú cúng dường để thể hiện lòng thành tâm. Sau khi cúng nước xong, ta đứng đối diện với bàn thờ rồi lạy ba lạy như việc ta thắp nhang. Tiếp tục như vậy mỗi ngày, sáng ta dâng nước lên, buổi tối đổ nước đi, lau chùi sạch sẽ và úp lại sẵn sàng cho ngày mai tiếp tục. Đây là một việc đơn giản không tốn nhiều thời gian, ai cũng có thể làm được, và làm với tâm đúng đắn.

Công đức ngày càng được tích lũy ít hay nhiều điều này phụ thuộc rất nhiều vào tâm người thực hiện cúng dường. Đúng đây là việc rất đơn giản nhưng làm như thế nào mới là cái tâm được nhận nhiều công đức? Nếu chính ta luôn cầu mong với cái tâm Tam bảo sẽ giúp ta được công việc, cuộc sống giàu sang hay cho mình vượt qua hết những bệnh tật ở đời, mỗi ngày lại cầu xin những điều khác. Thì đó không phải cái tâm mà Phật muốn và sẽ hồi đáp lại mà còn khiến ta hao tổn đi công đức của chính mình.

Cúng dường với tâm đúng đắn đó là phải nhớ về cuộc sống trong vòng sinh tử luân hồi khi ta cúng dường. Ta phải biết rằng trong sự luân hồi đó đều là sự đau khổ, là sinh lão bệnh tử mà còn người luôn luôn phải mang theo. Đây gánh nặng từ kiếp này, kiếp trước và có thể kiếp sau phải mang. Chúng ta luôn đốt cháy những ngọn lửa luân hồi mà vẫn chưa hiểu nỗi đau mà thân nến đó gặp phải, không biết được những khổ đau của chính bản thân.

Đức Phật và các vị Bồ Tát đã nhìn vào vòng tuần hoàn luân hồi, thấy chúng sanh nơi dương gian đầy sự khổ đau mà thương xót đến nỗi đã phát nổ thành từng mảnh đau thương. Chính các vị cũng đã trải qua nên cũng hiểu rõ cho nỗi khổ đau mà ta phải gánh vác trên đôi vai của mình. Còn chính chúng ta là người đang phải chịu những điều này vậy mà ta lại không đối diện với nó, chẳng hay, chẳng biết gì về những nỗi khổ đó. Có những điều khổ ta có thể dễ nhận dạng ra và hiểu được, nhưng với những nỗi đau sâu thẳm sẽ khiến ta dễ dàng lầm tưởng đó chính là hạnh phúc. Từ đó ta cứ dựa dẫm vào mà chẳng buông tay ra, chôn vùi mình vào nỗi đau.

Cúng dường tam bảo bao gồm những gì?

Phần trên ta đã hiểu được lý do tại sao ta nên cúng dường tam bảo thì tiếp theo ta sẽ tìm hiểu thêm tam bảo, ba ngôi báu chính là: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

Cúng dường được coi là một điều nuôi dưỡng cho Tam bảo vững vàng mà tồn tại mãi ở dương gian. Tất cả hành động giữ gìn cho Tam bảo đều được gọi là cúng dường. Tam bảo thường được chia là Phật, Pháp và Tăng. Trong đó chữ Pháp được bắt nguồn từ tiếng Phạn đến tiếng Hán được ghi chép trong kho tàng Phật Pháp. Tăng ý chỉ những Phật tử, tu sĩ theo học Phật giáo tu thành chính quả. Tam bảo là đều được quý trọng nhưng Tăng sẽ là điều quan trọng nhất. Bởi vì, không có Tăng sẽ chẳng có ai giữ gìn nơi linh thiêng để tôn kính cũng như không có ai giảng dạy thay cho Đức Phật. Thế nên khi cúng dường ta nên chú trọng vào Tăng, nếu Tăng không còn thì Tam Bảo sẽ trở nên mai một và mất dần. Mọi sự cúng dường đều sẽ đặt gánh nặng lên Tăng, để Tam bảo mãi tồn tại nơi dương gian.

Cúng dường tam bảo bao gồm những gì?

 

Cúng dường cho những vị Tăng 

Phật bảo

Tuy Phật đã nhập diệt nhưng ta vẫn phải siêng năng cúng dường để thể hiện lòng tôn kính của ta dành cho Người. Cúng dường cũng sẽ như món ăn dâng lên Đức Phật, hình dung cho việc người vẫn đang dạy bảo, chỉ ta cách để tu hành.

Pháp bảo

Đây là cách mà tổ tiên ta đã bỏ ra thời gian, tiền bạc, công sức để tìm tòi nghiên cứu giáo lý Phật Pháp, in ấn ra kinh Phật để lưu truyền trong sử sách dạy dỗ cho thế hệ sau. Để phần nào giúp tôn giáo này trở nên linh thiêng hơn, được mọi người biết đến với lòng thành kính.

Tăng bảo

Nghi thức cúng dường là một nghi lễ linh thiêng nên trước khi thực hiện ta phải tìm hiểu rõ về nó. Phải tìm những tài liệu, nghiên cứu, học tập theo những điều đã được ghi chép để hiểu được hành động này mang lại giá trị cho bản thân. Ngoài việc có thể tự học hỏi thông qua những thông tin tìm kiếm được, có thể đến với những vị Tăng để nghe lời giảng dạy. Chính nơi đó sẽ dạy cho ta những kiến thức chính xác, từ việc lắng nghe ta sẽ dần dần hiểu được ý Phật. Nếu cơ sở vật chất, tài chính tốt ta có thể chọn những khóa học đặc biệt để có thời gian tu luyện bản thân.

Trong giáo lý của Phật Pháp luôn dạy ta phải cúng dường cho những vị Tăng, vì đây cũng chính là hình ảnh của Đức Phật nơi dương gian. Khi ta cúng dường để tỏ lòng thành kính và nuôi dưỡng cho các vị Tăng thường được gọi là Tăng bảo. Ngoài ra những hành động quyên góp tu sửa hoặc xây dựng tịnh xá, chùa cũng được gọi là một hình thức của cúng dường Tăng bảo.

Cách thức cúng dường tại gia

Thường các vị Tăng sẽ hướng dẫn ta cách thức để cúng dường đúng đắn, vì họ là người thay thế cho Đức Phật giảng dạy cho ta. Vì vậy ta cũng phải tôn kính, nuôi dưỡng các vị Tăng như ta làm với Đức Phật. Ta phải có lòng tôn kính tuyệt đối với các vị, không được tỏ ra thiên vị hoặc phân biệt các vị Tăng đến từ nơi nào, chùa nào, Tăng đoàn nào. Mà hãy hết lòng cúng dường để mang lại công đức cho chính bản thân.

Những món được chọn khi cúng dường phải được chọn là những món cần thiết cho đời sống tu hành của vị Tăng. Không phải là chọn theo sở thích cá nhân của vị nào đó, hay cúng dường những món không đúng theo Phật dạy. Điều này không giúp cho người cúng thêm công đức mà còn mang theo tội.

Những đồ khi chọn cúng dường không cần quá mắc, hoang phí. Mà chỉ cần những món mà Phật đã chỉ dạy bao gồm:

  • Đèn thắp sáng
  • Trái cây 
  • Hoa tươi
  • Hương thơm
  • Nước trong sạch
  • Có thể thêm có trắng là đủ.

Ngoài ra ta có thể cúng dường Đức Phật theo 5 món hương thơm như sau:

  • Giới thơm: Ý chỉ để trở nên như Phật ta phải giữ mình trong 5 giới cấm.
  • Định hương: Ý chỉ hãy luyện thói quen tâm thanh tịnh, đó chính là con Phật.
  • Huệ hương: Ý chỉ siêng năng học hỏi giáo lý Phật, nghiên cứu và thực hành theo Người dạy.
  • Giải thoát hương: cuộc sống là vô thường, vô ngã, ý thức được vòng luân hồi nghiệp kiếp trước.
  • Giải thoát tri kiến hương: Không phải cuộc sống dương gian là nơi lâu dài, những nỗi đau là chân lý và sự thật.

Những vật phẩm cúng dường mang nhiều ý nghĩa nhất

Đây là 3 món vật phẩm cúng dường mang nhiều ý nghĩa mà ta nên lưu ý. Những vật phẩm này sẽ giúp ta tỏ lòng thành kính của mình dành cho các vị Phật. Điều này sẽ chuẩn bị cho ta cái tâm vững chắc mà Người cần, từ đó ta tích lũy được nhiều công đức hơn là những tội lỗi. Tập cho ta lối sống hướng thiện hơn.

Hoa sen

Hoa sen vật phẩm cúng dường

 

Hoa sen vật phẩm cúng dường

Hoa sen thường được xem gắn liền với dân gian Việt Nam ta. Nhưng ngoài ra hình ảnh hoa sen cũng được gắn với Phật giáo. Đây cũng được chọn là loài hoa được dâng lên Phật nhiều nhất, kể cả các dịp quan trọng. Vì loài hoa này thể hiện cho sự tinh khiết, trong sạch giữa đầm lầy. Một bông hoa xinh đẹp được nở ra giữa nơi không ai muốn đến. Nhưng nếu không có những bùn lầy sẽ chẳng có những chất nuôi dưỡng bông hoa nở rộ. Sự đặc biệt của loài hoa này không thể mọc lên nơi khô cằn, cũng như không thể sống ở nơi sạch sẽ, mà phải được trồng nơi dơ bẩn. Nhưng hương thơm khi nở rộ lại chẳng mang theo hương của bùn đất mà mùi thơm đầy kinh ngạc. Điều này cũng ẩn dụ để dạy cho ta biết sẽ không thể nào giải thoát khỏi chốn trần gian này nếu ta không tu tâm để giác ngộ. Hoa sen trong Phật Pháp là hình tượng biểu hiện cho sự ý chí vươn lên, giải thoát bản thân.

Đèn dầu

 

Đèn dầu cúng Phật

Đèn dầu cúng Phật

Thường ta sẽ nghĩ rằng đèn dầu chỉ để thắp sáng nhưng đối với Phật Pháp lại mạng ý nghĩa rất linh thiêng. Đó chính là ngọn đèn của sự tri thức. Ngọn đèn đó chính là bản thân mỗi người chúng ta, chiếu sáng cho chốn trần gian. Chính ta sẽ phá tan những bóng tối, ánh sáng của ta sẽ làm tan biến đi bóng tối của đau khổ, ánh sáng của sự hiểu về giáo lý của Phật.

Nó còn mang tầng ý nghĩa khác đó chính sự ngộ ra những chân lý trong cuộc sống, biết phân biệt đúng và sai, xóa đi lòng ghen hận, nhận ra được ánh sáng của hướng thiện.

Ta có thể thấy rằng, những vật phẩm được cúng dường cho các vị Tăng, Đức Phật, Bồ Tát đều muốn dạy ta về giáo lý Phật, nhắc nhở ta hãy sống hướng thiện và tu tâm trong sạch.

Nước trong sạch

 

Nước trong sạch cúng Phật

Nước trong sạch cúng Phật

Nước trong sạch được coi là một vật phẩm quan trọng nhất nên khi cúng cho Phật ta không nên thiếu vật phẩm này. Đây cũng là vật dễ dàng tìm kiếm nhất. Nước biểu hiện cho chính tâm hồn mỗi người, nước sạch ý chỉ có tâm thanh tịnh, không phân biệt. Cho nên khi ta nhìn vào những ly nước luôn nhắc ta hãy để tâm mình trở nên thanh tịnh không ghen ghét, oán hận ai. Tâm ở đó chính Tâm Phật, chân Tâm mà ta muốn hướng tới. Khi cúng dường nước ta nên lưu ý dâng Phật 3 ly nước, để tượng trưng cho điều Người dạy về 3 ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.

thập bát la hán

Tổng hợp toàn bộ 18 vị Thập bát La hán

Đối với những người đi theo tôn giáo Phật Pháp có lẽ đã không có gì xa lạ với 18 bức tượng. Vậy những bức tượng đó có ý nghĩa như nào? Những bức tượng đó khắc những ai? Tại sao lại được đặt vào những nơi tôn nghiêm ở khắp các ngôi Chùa ở Việt Nam ta. Để tìm hiểu được “Thập bát La hán” chúng ta hãy cùng nhau tham khảo bài viết sau của thietkenhathoho.com, để có những thông tin hữu ích về các vị này trong Phật Pháp. 

Thập bát La hán là ai trong Phật giáo?

Thập bát La hán là ai trong Phật giáo?

Thập bát La hán

Thập bát La hán là tên gọi của những vị A La Hán trong Phật Pháp. Những vị này đến nay vẫn được các Phật tử thờ cúng và ảnh hưởng sâu rộng tại Trung Quốc và cả Việt Nam ta. Đến trong sử sách ngày nay vẫn còn ghi chép về bức họa Thập bát La hán thời nhà Thanh. Nó được nằm bên phải bức vẽ, được yêu cầu bởi vua Càn Long.

Trong giáo lý kinh điển, một số kinh sách ghi chép lại thì phần lớn đều là lời ca ngợi của Đức Phật Thích ca Mâu ni dành cho những đệ tử Thanh Văn nổi bật. Trong những vị đó được công nhận đã dành hết kiếp này để cúng đường cho vị A la hán. Khi Đức Phật nhập diệt (nhập tịch – ý chỉ đang vào nơi mà trong thâm tâm đã đạt cảnh giới) thì những vị A la hán đã được ghi nhận. Trong lần đầu tiên thì được 500 người nhưng chỉ có vài vị chủ chốt được nhắc tên. Những điều này đều được theo quy tắc và vai trò trong Tăng đoàn.

Theo như sử sách ghi chép lại thì có 4 vị được nhắc đến nhiều nhất, đã sớm xuất hiện ở Trung Quốc vào những năm ở thế kỉ IV. Càng về sau số lượng các vị La Hán dần tăng lên 16 vị, bao gồm cả những người được xác định là thật và có những vị vẫn được xem là hư cấu. Được tìm hiểu, biết đến thông qua tác phẩm Pháp trụ kí của một vị Đại sư là người đến từ Sri Lanka, đã được dịch thuật qua chữ Hán. Nhờ vào chính tác phẩm và độ phổ cập của nó mà 16 vị La hán đã được ghi nhận và được các Phật tử nhớ đến. Nhưng sau đó lại không còn tên của 1 vị trong những vị đã được ghi chép, đến nay vẫn  không rõ nguyên nhân như nào.

Từ những năm nhà Đường dần diệt vong đến đầu thời kỳ quan trọng nhất của Trung Quốc đó là Ngũ đại Thập quốc, thì danh sách những vị La hán được thêm 2 vị và cho đến nay có tổng 18 vị. Cũng chính điều này mà những vị này đều được người Trung Quốc biết đến. Điều này cũng ảnh hưởng đến Việt Nam, khi văn hóa Phật giáo du nhập và cũng có rất nhiều bản khác nhau. Không dừng ở đó mà còn đến với những nước khác đó là Nhật Bản, Tây Tạng những ở đây vẫn là 16 vị La hán.

Đối với Phật Pháp và Phong thủy về 18 vị này có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi đây là được xem là những vị thần quan trọng trong A la hán, những vị này đều mang cho mình những tiểu sử cá nhân khác nhau. Ảnh hưởng rất nhiều đến văn hóa và đời sống tâm linh của những người dân ở Ấn Độ, Việt Nam, Trung Quốc cũng như những nước lân cận khác.

Vậy chúng ta hay nói đến là Thập bát La hán, trong đó “thập bát” là 18 vị những La hán có nghĩa như nào? Thì nó có nghĩa là Vô Cực Quả. Những vị này là những người đã đạt đến cảnh giới, đã được học và hiểu biết những thứ trên đời này. Ngoài ra các vị La hán được tượng trưng cho nguồn sức mạnh chống lại những điều xấu xa và những thế lực xấu xa, cũng như dạy ta đối nhân xử thế giữa người với người, điều cuối cùng đó là lòng nhân ái của con người ta. Đối với Phật tử thì Thập bát La hán đã không là những điều quá xa lạ, nhưng nó cũng nổi tiếng kể cả những người không theo tôn giáo này. Điều này được thể hiện qua bài thơ của một tác giả nổi tiếng đó là Huy Cận. Những ngôi Chùa lớn thường đều có 18 bức tượng đại diện cho 18 vị, được khắc một cách tinh xảo, tính tế, thể hiện được sự riêng biệt của mỗi người, đại diện cho những điều khác nhau.

Nhưng 18 vị này không phải chỉ có như thế mà họ có một trách nhiệm rất quan trọng được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni căn dặn. Đó chính là những vị này phải ở lại cõi trần đời này để dạy cho chúng sinh, tiếp nối những điều mà người đã làm. Nhưng theo như lúc đầu người chỉ căn dặn đúng theo là 16 vị. Chúng sanh vì lòng tôn kính mà cũng đã khắc tượng 16 vị này ở thời nhà Thanh. Nhưng theo như ghi chép vì sự tôn trọng mà lúc đó đã cho 1 vị tôn giả và 1 đại sư thêm vào danh sách thành 18 vị. Đến đời vua Càn Long thì đã định lại những vị La hán lần lượt thứ 17 và 18 là hai vị khác. Và đó cũng là danh sách chính thức lưu truyền đến đời nay.

Từ đâu xuất hiện tượng của Thập bát La Hán

Từ đâu xuất hiện tượng của Thập bát La Hán

 

18 vị La hán tại một ngôi chùa ở Mỹ

Từ xưa đến nay nguồn gốc của những tượng Phật thường là ở Ấn Độ và thường xuất hiện trong những tác phẩm của Đại Sư Huyền Trang. Chính trong tác phẩm đã nói đến 16 vị được chọn ở lại thế gian chăm lo cho chúng sinh. Cũng vì lý do này, để hoàn thành trách nhiệm Đức Phật trao phó nên không thể nào vào cõi Niết Bàn.

Khi ta hiểu được định nghĩa cũng như biết Thập bát La hán là những vị có sứ mệnh quan trọng. Thì một số nhà triết học cũng cho rằng chính con số “Thập bát-18” này mang lại nhiều may mắn. Và những bức tượng được khắc tinh xảo này cũng có ý nghĩa trong phong thủy. Vì sự đặc biệt của mỗi vị, sự ấn tượng dành cho những ai tìm hiểu về các vị.

Cho đến tận nay những hình dạng của các vị đa số đều được hình dung theo sử sách chép lại, chứ không có hình ảnh xác nhận, lẫn thông tin xác nhận họ tồn tại hay hư cấu. Hình tượng đầu tiên là xuất hiện trong giấc mơ của nghệ sĩ vẽ tài ba đó là Thiền Sư Quán Hưu từ những năm TK II. Chính những vị La hán đã báo mộng ông hãy vẽ chân dung cho họ. Nhưng theo sử sách Trung Quốc cho rằng họ có nét giống nhau. Cũng như theo chân dung Thiền sư vẽ thì tất cả các vị đều là người nước ngoài, có khuôn chân mày rậm, đôi mắt thì to và chiếc mũi cao. Vì là đa số đều xuất phát từ Trung Quốc nên phong cảnh trong bức vẽ cũng chính là nơi đây, nét đặc biệt thời đó chính là đá và thông đều được vẽ giống ngày nay. Nhưng lại có những bức họa vẽ trang phục của các vị giống những người ăn xin để làm nổi bật sự sống ở trần gian, những ham muốn sâu bên trong con người dương gian. Từ bức vẽ của Thiền Sư vẽ nên đã trở thành những mẫu vẽ cho những nghệ nhân sau này, nhưng mỗi bức vẽ đều sẽ thay đổi để một phần gửi gắm thông điệp của chính người vẽ. Mặc dù thay đổi nhưng không nhiều vẫn mang những nét đẹp và thông điệp cụ thể của 18 vị La hán.

Ý nghĩa về tượng Thập bát La Hán

Theo như sử sách ghi chép trong Phật Pháp thì đây chính là sứ mệnh mà các vị La Hán được Đức Phật trao cho trọng trách này. Còn theo triết học thì lại thể hiện là một con số máy mắn và trong phong thủy. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa riêng biệt trong Phật giáo và phong thủy này như nào? Có gì khác biệt không?

Ý nghĩa trong Phật Pháp

Ý nghĩa trong Phật Pháp

 

Hình ảnh một vị La hán

Ở những ngôi Chùa lớn ở Việt Nam ta đa số đều có những bức tượng của các vị Thập bát La hán, khi bước chân vào ngôi chùa thấy cảnh vật đó ta cũng thấy được suy uy nghiêm và một nét đẹp cổ kính từ thời Trung Quốc cổ. Từ những ngày đầu đến này 18 bức tượng này đều được những chúng sinh, Phật tử tôn kính và cầu nguyện với những vị La Hán. Vì họ đều mong muốn gia đình hay chính bản thân được bình an, may mắn, hay những điều vui trong cuộc sống.

Theo giáo lý Phật Pháp ghi chép lại thì Thập bát La hán được chia thành 3 ý nghĩa như sau:

Đầu tiên đó là “sát tặc” ý chỉ là hãy loại đi như ưu sầu. Những tiềm thức bên trong chúng ta thường sẽ là những nỗi buồn, đau khổ, uất hận sâu trong thâm tâm ta. Nhưng chính Đức Phật là nơi tâm ta được an tịnh, dựa vào, có niềm tin mãnh liệt, nhờ người ta được bình an trong tiềm thức. Người cũng là người đã dẫn đường cho ta đi đúng đường tránh xa những con đường u tối, đầy sự cám dỗ. Ở dương gian này những dục vọng luôn xuất hiện xung quanh ta, nên chỉ cần sơ hở ta sẽ mắc kẹt mãi ở lưới gian ác. Chính người đã cứu thoát ta và dạy ta cách đối nhân xử thế đúng đắn.

Thứ 2 được gọi là “ứng cung” hay chính quả La Hán. Theo như ghi chép thì 18 vị La hán đã trải qua khoảng thời gian thu hành, khổ luyện và đã đạt được cảnh giới, nên cuộc sống ở dương gian đã không còn vướng bận. Nhưng vì theo sứ mệnh được Đức Phật La hán giao phó nên họ phải ở lại để dẫn đường cho chúng sinh. Nhưng giờ đây có lẽ họ đã được tới nơi được gọi là cõi Niết Bàn bên Ngài.

Cuối cùng đó chính là vô sinh. Lúc còn sống trên dương gian những 18 vị đã đạt đến cảnh giới, được giải thoát nên họ sẽ không phải tiếp tục bước vào vòng luân hồi, họ đã được tới nơi mà những vị Phật khác đã đến. Cũng chính vì sự đặc biệt, cũng như để noi gương các vị nên vẫn được mọi tôn kính, đây chính là hình ảnh quen thuộc của những người theo Phật giáo.

Ý nghĩa trong phong thủy

Ý nghĩa trong phong thủy

 

Được điêu khắc tỉ mỉ

Mỗi một bức tượng được điêu khắc tinh xảo ở Việt Nam hay trên thế giới đều mang trong nó là một ý nghĩa, nhất là tôn giáo thì lại thiêng liêng hơn rất nhiều. Nhưng có thường họ không chỉ thờ kính ở những ngôi chùa như Phật giáo, nhà thờ như Công giáo. Ngoài ra, vẫn có nhiều người vẫn thờ cúng những vị đó tại chính ngôi nhà mình hay nơi làm việc. Đối với họ không chỉ dừng lại ở bước thờ kinh mà còn là sức mạnh tâm linh. Đó là sức mạnh mong muốn gia đình mình bình an, cũng là sức mạnh răn dạy bản thân phải cố gắng và đi đúng đường trong cuộc sống này.

Có một số người khác cũng đặt những bức tượng Thập bát La hán ở chính căn nhà như là một lời nhắc bản thân phải sống tâm tốt, nhân ai, làm điều thiện tránh điều tà ác. Đồng thời để tránh gia đình mình khỏi như ma quỷ. Khi tâm bình an, trong sạch thì mới có thể an tịnh chăm sóc cho đời sống tâm linh bản thân tốt hơn. Những bức tượng đó sẽ như người cai quản và giúp cho gia đình làm ăn tốt hơn.

Sơ lược về 18 vị La Hán.

Từ thời nhà Thanh đến thời điểm hiện tại, danh sách của Thập bát La hán đều có những thay đổi đi những cuối cùng danh sách cùng được vua Càn Long thống nhất và giữ gìn đến nay. Theo như Đức Phật căn dặn 16 vị đầu đó chính ở lại dương gian làm lợi cho chúng sinh, nhưng sau đó có 2 vị được thêm vào danh sách này. Vậy họ là những người như nào mà lại được Phật tin tưởng đặt niềm tin và ta thờ kính đến nay. Ta hãy cùng nhau tìm hiểu 18 vị La hán này theo thứ tự như sau.

Vị La Hán Tọa Lộc

Vị La Hán Tọa Lộc

 

Vị La Hán Tọa Lộc

Ngài tên là Pindola Bhāradvāja hay còn được dịch là Tân đầu lô phả đọa, là một đại thần có tiếng tăm thời vua Ưu Điền. Ông là người có sở thích khá đặc biệt đó chính là rời cung vào núi rừng tu luyện, thiền đình đến khi đạt cảnh giới, xuất gia thành công. Ông thường cỡi hươu về triều đình và khuyên bảo vua nên xuất gia. Sau đó quốc vương cùng theo lời ông nhường ngôi cho thái tử nối ngôi và vua xuất gia. Từ đó, người đời thời đó mới đặt ông với cái tên “Kị Lộc La Hán”.

Vị La hán này cũng có những sai lầm, sơ sót được Phật nhắc nhở. Đó là có một lần ông đã sử dụng phép thần thông của mình để có thể lấy được chiếc bát quý được treo trên một trụ cao. Điều này nếu ta nghĩ theo hướng thường đây có vẻ sẽ ngạc nhiên và bất ngờ. Nhưng đối với Đức Phật đó sẽ con là sai trái vì ảnh hưởng đến việc mọi người tu hành để bản thân có thể biểu diễn những tài nghệ như vậy. Chính vì điều này mà Phật đã sai ông ở lại dương gian để nhận ra lỗi của mình cũng như làm lợi cho chúng sinh. Tôn giả cũng thường hay xuất hiện dưới thân xác và cả trong những giấc mơ để một phần làm chứng giúp cho kinh sách được dịch lại cách chính xác, một phần giúp chúng sinh theo sứ mệnh.

Là một trong những vị La hán được nhắc đến nhiều nhất ở thời đó đến nay, theo danh sách người cũng đứng ở vị trí đầu tiên.

Vị La Hán Khánh Hỷ

Vị La Hán Khánh Hỷ

 

Vị La Hán Khánh Hỷ

Người đời nhớ đến tên ông đó chính là Kanakavatsa. Ông là một trong những tôn giả được Đức Phật vì ông phân biệt rất rõ ràng đúng sai. Từ khi ông còn chưa xuất gia thì đã là người có cách cư xử lễ phép, luôn giữ gìn hành động của mình cách thanh lịch, tâm luôn trong sạch không nghĩ điều xấu. Đến khi xuất gia, tôn giả luôn cố gắng nỗ lực tu tâm, thiền định, nhờ việc luôn để bản thân mình theo khuôn phép nên ông đã rất nhanh chóng được cứng quả.

Người thường là người dùng lời nói và gương mặt vui vẻ của mình để nói cho chúng sinh tin tưởng, nghe lời dạy của Phật. Con người ta thường không phải cố ý mà phạm sai lầm mà chỉ là vô ý làm điều tà ác, dẫn đến ảnh hưởng cho con đường đến Đức Phật của chúng sinh. Bởi vậy, Người đã cố gắng không ngừng giảng dạy giáo lý giữa thiện và ác, để tất cả mọi người nhận ra lỗi lầm của mình và sửa đổi nó. Điển hình trong một lần người đi giảng dạy đã thấy một gia đình giết những súc vật và gia cầm để làm lễ mừng thọ. Người đã vào nhà họ và giảng dạy một cách thấu đáo về việc làm như nào mới là chúc thọ một cách đúng đắn, dạy về những điều làm mẹ, làm con, tu tâm bằng những bài giảng rất chân thật của ông. Chính ông là ánh sáng chiếu soi lời Phật dạy để truyền lại cho chúng sanh.

Vị La Hán Cử Bát 

Vị La Hán Cử Bát 

 

Vị La Hán Cử Bát 

Tên của Ngài Kanaka Bharadvaja. Ngài được biết đến là vị tôn giả đã đạt cảnh giới Niết Bàn vì chính Quốc vương đã không tin vào Phật giáo. Chính ông làm như vậy để làm chứng cho vị vua đó. Tôn giả đã dùng phép thần thông của mình để làm biến dạng mặt vua. Chính điều này đã làm cho vua lo lắng, nghe theo lời các tướng đã tạc tượng Bồ tát Quan Thế Âm từ đó thờ kính và hết lòng tin vào Phật Pháp. Tôn giả này thường mang theo bên mình một cái bát làm bằng sắt như một kẻ lang thang nên được nhân gian gọi là Cử Bát La hán.

Vị La Hán Thác Tháp

Vị La Hán Thác Tháp

 

Vị La Hán Thác Tháp

Tôn giả Subinda là người khá ít nói, dành thời gian chính để tu tâm nhưng lại là người rất nhiệt tình. Bản thân ông là người thích ở tịnh xá tìm hiểu những điều trong sách hay quét sân chứ không thích đi ra ngoài. Vì có tính cách nội tâm như vậy cũng có nhiều người không thích tôn giải hay phê bình, nhưng chính Đức Phật cũng dặn dò ông là hãy không quan tâm những vấn đề đó. Bởi vì, vấn đề mà ông phải hướng đến đó chính là giác ngộ. Phật cũng nói ông nên thực hành, lắng nghe lời người dạy để bản thân nhanh chóng tu chính quả. Nhờ những lời nói đầy sự an ủi đó mà Tôn giả đã dành hết thời gian của mình để thiền định và đã được chứng quả rất sớm.

Theo như sử sách cũng có ghi chép về sự nhiệt tình giúp đỡ chúng sinh của ông. Vào thời một đời vua nọ, vì muốn xây một tịnh xá ở một đỉnh núi nhưng lại không có những tảng đá lớn để xây dựng. Chính Tôn giả đã sử dụng phép thần thông của mình trong một đêm mang rất nhiều đá lớn đến. Sau đó, họ lại muốn khắc một bức tượng Phật lớn bằng vàng bên trong tịnh xá nhưng họ không có đủ chi phí. Chính ông đã dùng những giọt nước biến những phiến đá thành vàng. Điều này khiến cả triều đình vui vẻ và cố gắng xây dựng để có một nơi thờ kinh vô cùng diễm lệ.

Vị La Hán Tĩnh Tọa

Vị La Hán Tĩnh Tọa

 

Vị La Hán Tĩnh Tọa

Tên thật của La Hán Tĩnh Tọa là Nakula, thường ta hay thấy người với hình tượng đang ở tư thế thiền định trên phiến đá. Theo sử sách ghi lại thì Tôn giả thuộc hàng vua chúa, quan lại thời bấy giờ ở Ấn Độ, sức mạnh người được kế thừa từ tổ tiên, đời sống chỉ có biết đến sự chém giết, chiến tranh. Nhưng sau này xuất gia, Tôn giả đạt được chính quả trong tư thế tĩnh tọa. 

Đường thời của ông, xuất hiện ngoại đạo và những người nay đã nói ông hãy đi theo họ để tu luyện những phép thần thông. Nhưng ông vì niềm tin vào Đức Phật, sự hiểu biết đúng sai, nhận định ra rằng đó chỉ là tạm bợ. Bởi chính ta biết rằng giải thoát khỏi vòng luân hồi đó mới là đích đến, những thứ còn lại chỉ là lời dụ dỗ tà ác. Chính vì điều đó nên khi ông thấy vua bị dụ dỗ nên ông đã giải thích rõ ràng về Phật Pháp cho vua nghe, tránh xa những người ngoại đạo đó.

Vị La Hán Quá Giang

Vị La Hán Quá Giang

 

Vị La Hán Quá Giang

Tên của vị La hán này tên là Bạt đà la, vì Người được sinh ra dưới cây Bạt đà hay dịch ra được là Cây Hiền.

Theo sử sách, Người nghiện tắm rửa, thường này người có thể tắm một lần đến mười lần. Điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến thời gian công việc của ông. Như mọi người đã đi ăn cơm và đến khi hết cớm thì ông mới xuất hiện. Nhiều lần mọi người đang tĩnh tâm vào buổi tối thì ông lại lẻn đi tắm. Đến cả tối khi đang ngủ ông cũng thức dậy để tắm. Sau khi Đức Phật biết đến việc này đã chỉ dạy cho Tôn giả biết thế nào là tắm cần thiết, tắm không phải dừng ở việc sạch sẽ thân xác mà còn ở tâm hồn, rửa đi những suy nghĩ xấu trong tâm để thanh tịnh. Sau khi nghe lời Đức Phật dạy, Người cũng đã nhận ra được ý nghĩa của việc tắm rửa trong tâm hồn mình. Nhờ vậy chẳng bao lâu người đã được chứng quả. Từ đó viêc tắm rửa cũng là bài giảng dạy mà Tôn giả khuyên mọi người học theo.

Vị La Hán Kị Tượng

Vị La Hán Kị Tượng

 

Vị La Hán Kị Tượng

Tên của Tôn giả là Kalika. Người đã làm nghề huấn luyện voi trước khi xuất gia. Lúc người được chứng quả thì Đức Phật đã nói Người nên ở lại quê hương mình để chăm sóc chúng sanh nơi đây.

Đức Phật đã đến Tích Lan là quê hương của Tôn giả để giảng dạy, thì chính người cũng là đệ tử đi theo. Lúc Phật sắp phải đi thì chính vị vua đương nhiệm thời đó đã xin một kỷ niệm lại nơi đây. Nên Đức Phật đã dùng dấu ấn chân mình trên một đỉnh núi, từ đó nơi đó được gìn giữ và được gọi là Phật Túc Sơn. Nhưng trải qua nhiều thế hệ thì nó dần bị bỏ quên. Có lần một vị vua khác bị rượt đuổi đã may mắn chạy vào hang núi, chính Tôn giả đã hóa thân thành con nai đến dắt lên nơi có dấu chân Phật. Sau những đời vua tiếp theo cũng lại không còn cung kính Phật, Tôn giả cũng hóa thân để thức tỉnh cho nhân gian thời bấy giờ. Và điều ông đã làm nay đã thành công.

Vị La Hán Tiếu Sư

Vị La Hán Tiếu Sư

 

Vị La Hán Tiếu Sư

Tên của Tôn giả là Vajraputra. Người là thợ săn với thân hình cường tráng, một tay nâng voi, tay còn lại có thể ném được một con hổ rất xa. Tất cả muôn thú đều sợ Người. Sau khi xuất gia, người đã được chứng quả nhờ sự nỗ lực. Vì có một con sư tử hay quấn lấy Người nên vì thế nhân gian gọi là La Hán Tiếu Sư.

Người là đã dùng phép thần thông của mình để làm chứng cho Phật. Khi có người đã cho rằng Phật Pháp đã suy đi, thì chính phép đó đã khiến người dân thời đó tin tưởng vào Người. 

Vị La Hán Khai Tâm

Vị La Hán Khai Tâm

 

Vị La Hán Khai Tâm

Tôn giả Jivaka là người có hình tượng khiến nhiều người nhớ đến nhất là vạch áo bày ngực nhưng là để cho ta thấy đó là tâm Phật. Người sau khi xuất gia nhưng lại mất đến bảy năm mới được chứng quả. Người được biết đến là đã không tin Đức Phật cao như vậy đã dùng một cây trúc để đích thân đo cho Phật. Nhưng nhờ vào chuyện đó mà người đã trở nên một tôn giải như ngày nay.

Cũng chính nhờ cây sào đó mà Phật đã tạo ra vườn trúc rộng lớn, thường hay được gọi là Trương Lâm. Những Phật tử cũng đến đây để tôn kính màu nhiệm của Phật. Và ngoài ra Tôn giả cũng dùng phép thần thông của mình để khiến nơi đây xanh tốt hơn, rất được lòng dân chúng nơi đây.

Vị La Hán Tham Thủ

Vị La Hán Tham Thủ

 

Vị La Hán Tham Thủ

Ngài tên là Panthaka, một vị La hán có hình tượng hai tay vươn lên sau khi thiền định xong. Theo như ghi chép thì 2 anh em ông đều được sinh bên đường, vì gặp xung đột theo phong tục Ấn Độ khi trở về quê Ngoại để sinh.

Ông là một người tri thức, luôn đi theo ông Ngoại để nghe Phật giảng dạy, sau đó mới có ý xuất gia. Được gia đình đồng ý nên Người gia nhập Tăng đoàn và sau đó được chứng quả. Sau đó vì muốn em mình xuất gia như mình nên người đã hướng dẫn. Do thời gian đầu ông cho rằng em mình không thể nên đã khuyên không nên xuất gia nữa. Nhưng không phải vì không kiên nhẫn hay ghép bỏ em mình, mà là trách nhiệm của một Tôn giả. Sau này em ông thành công chứng quả, chính ông rất mừng cho em trai của mình.

Vị La Hán Trầm Tư

Vị La Hán Trầm Tư

 

Vị La Hán Trầm Tư

Người tên là Rāhula. Trước khi xuất gia theo Phật, Người hãy có thói quen xấu đó trêu ghẹo và khí vương giả, nhưng đã cố gắng để chứng quả. Sau đó người luôn được mọi người biết đến với tính cách không hơn thua, tranh cãi với người khác, dù phòng mình có bị người khác chiếm thì người sẽ đi tìm chỗ ngủ khác. Có bị người khác làm mình bị thương, Người cũng tự rửa sạch và băng bó. 

Sau này sử sách có ghi lại lúc Phật diệt độ người ta không còn tin vào Phật, đập phá và tiêu hủy, số người xuất gia thì giảm. Nhưng Người thì luôn cố gắng cầu khấn trong khi chẳng ai để ý đến Người. Cho đến một ngày có người cúng một bát cháo cho Tôn giả người mới nói những điều trong quá khứ Người đã theo Phật, cũng như nói cho họ biết Phật vẫn còn tại thế.

Vị La Hán Khoái Nhĩ

Vị La Hán Khoái Nhĩ

 

Vị La Hán Khoái Nhĩ

Người tên là Nagasena hay còn có tên khác là Na Tiên. Người là rất giỏi và là bác học đa văn được Vua thời đó địch thân cho vào cung thăm hỏi. Cũng chính việc nói chuyện giữa vua và Tôn giả mà đây được cho là vị vua anh minh nhất và hết lòng ủng hộ Phật giáo thời bấy giờ.

Trong tranh vẽ Ngài là vị La Hán đã ngoáy tay, khá là đặc biệt và thú vị. Cũng có người cho rằng hình ảnh đó tượng trưng cho người dùng âm thanh để đưa các Phật tử vào Đạo. Đó là ý nghĩa riêng biệt của Tôn giả này.

Vị La Hán Bố Đại

Vị La Hán Bố Đại

 

Vị La Hán Bố Đại

Tên của vị La hán này là Angada. Theo như ghi chép người làm nghề bắt rắn ở Ấn Độ, bởi vì nơi Người ở có rất nhiều loại rắn độc gây chết người. Nhưng người chỉ bắt chúng bà bẻ đi rằn độc và phóng sanh nó đi. Đây là hành động hết sức cao đẹp thay vì giết chết một sinh mạng, thể hiện lòng từ bi của vị này. Người thường mang theo một túi vải bên cạnh mình để đựng rắn.

Vị La hán này đi khắp nhân gian, tự do tự đại bằng rất nhiều hình thức. Bố Đại thường được biết đến có thân hình mập mạp, với chiếc bụng to, và có túi vải kế bên mình như hiện thân của một vị Bồ tát Di Lặc.

Vị La Hán Ba Tiêu

Vị La Hán Ba Tiêu

 

Vị La Hán Ba Tiêu

Vanavàsin là tên của vị La hán này. Trong bối cảnh thời tiết mưa lớn bà đã sinh ra Người lúc đó. Sau khi Người xuất gia, người có sở thích vào rừng hay đứng dưới cây chuối nên mới được gọi với cái tên La Hán Ba Tiêu.

Trong một lần nhà Vua Ca ni sắc ca đang đi săn thì Tôn giả đã hóa thân thành một chú thỏ dẫn đến nơi có một người đang dùng bùn đất để nặn nên Phật. Chính người đó cũng đã nói với vua  sẽ xây một Tháp ở tại nơi đây. Mà người đó chính là Phạt na bà tư hiện thân. Từ đó nhà vua đã cho xây dựng tháp Phật, ủng hộ cúng dường.

Vị La Hán Trường Mi

Vị La Hán Trường Mi

 

Vị La Hán Trường Mi

Tên của vị La hán này là Ajita. Người được sinh ra đã có một điều đặc biệt là lòng mày dài xuống, và theo như đó là kiếp trước người là một nhà sư. Sau khi xuất gia Người cũng cố gắng thiền định và được chứng.

Khi Ngài thấy có một nước trong lúc ngài đi ngang qua, nơi này không tin vào Phật, chỉ trông chờ những vị thần thiên nhiên nơi này. Vị Thái tử nước này đang lâm bệnh năng nên vua đã mời rất nhiều vị danh y chữa bệnh, cả những người ngoại đạo. Nhưng cho tới khi gặp Người, thì đã bảo sẽ không sống lâu, khiến vua rất tức giận. Sau đó không lâu Thái tử qua đời, Tôn giả cũng đến an ủi. Chính Người đã nói với nhà vua những vị ngoại đạo nói con vua sẽ hết bệnh đó là điều không đúng. Cũng từ đó vua tin vào Phật Pháp, sau đó đất nước này càng ngày hưng thịnh hơn.

Vị La Hán Kháng Môn

Vị La Hán Kháng Môn

 

Vị La Hán Kháng Môn

Vị La hán này có tên là Culla Patka. Trong sách giáo lý có nhắc đến Người là tấm gương nên noi theo nhờ sự cần cù siêng năng. Vì khác những vị La hán khác, vị này không thông minh đã đến khi xuất gia cũng gặp những khó khăn vì không thể thấy hiểu rõ, việc thiền định người cũng không thể làm được. Những nhờ sự chỉ dạy Người đã học ra được tính kiên trì, nhẫn nại với mọi việc xung quanh, nhờ đó mờ dốc hết tâm sức nghe lời giảng dạy của Phật, cuối cùng cũng được chứng quả.

Đó cũng em trai vị La Hán Tham Thủ, chính ông cũng rất vui mừng khi em mình đã được như mình, hướng lòng đến Phật.

Vị La Hán Hàng Long 

Vị La Hán Hàng Long 

 

Vị La Hán Hàng Long

Đây là Vị La Hán được thêm vào thời vua Càn Long, tên là Nandimitra được dịch ra là Khánh Hữu.

Đây là người đã làm chứng cho Phật ở nước Sư Tử năm xưa. Dù người đã tự thiêu thân mình nhưng vẫn ở đó lên núi cứ ngụ thiền định. Ngài vẫn thường xuyên đi bôn ba khắp nơi để giảng kinh. Nhân gian luôn cho rằng người đã ở thế gian cũng với 16 vị La Hán trước. Và việc thành vị La Hán để tưởng nhớ công ơn của ông.

Vị La Hán Phục Hổ

Vị La Hán Phục Hổ

 

Vị La Hán Phục Hổ

Đây là vị La hán cuối cùng được thêm vào danh sách này tên là Dharmatrata. Từ lúc con nhỏ Người đã thích đến chùa và thờ kính 16 vị La hán. Khi được nghe về những người trong giai thoại đó cũng đã in đậm trong trí nhớ từ nhỏ. 

Cho đến một lần khi đang thờ kính các vị, Người đã thấy bước tưởng chuyển động. Thấy làm lạ nên đã dụi mắt và còn thấy rõ hơn các vị đang cười với mình. Từ đó ông thêm lòng thờ kính, tin vào các vị mà cố gắng tu tâm trở thành một vị La hán. Người luôn làm việc thiện, vào chùa tịnh tâm và đã được chứng quả. 

Người sau khi trở thành một vị La hán, đã đi khắp nhân gian giảng kinh và giúp đỡ tất cả mọi người. Có lần ông đã thu phục được một chú hổ rồi huấn luyện nó, sau này đi đâu ông cũng mang theo mình. Nên ở bức tượng Người lúc nào cũng có thêm một con hỗ và có tên là La hán Phục Hổ.

Đây chính là sơ lược Thập bát La hán, mỗi người đều xuất phát ở một gia thế, một hình tượng hoàn thành khác nhau. Nhưng tất cả đều hướng đến sứ mệnh mà Đức Phật đã trao phó.

Nếu bạn đang có nhu cầu cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc các công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmai.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian thờ tự chuẩn phong thủy nhất.

Hầu đồng là gi?

Hầu Đồng là gì?

Nếu là một người Việt Nam, chắc hẳn mọi người đã không còn gì xa lạ với hầu đồng. Hầu đồng được biết là một nghi lễ thuộc tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) của Việt Nam. Khi chưa hiểu hết về nghi lễ này, có rất nhiều người cho rằng hầu đồng là một hiện tượng tâm linh còn ẩn chứa nhiều điều “huyền bí” thậm chí bị chỉ trích đây là một trò “mê tín”, “lố lăng”. Tuy nhiên, sự thật không phải vậy, hầu đồng được xem như là một trong những nét đẹp văn hóa đặc trưng của riêng Việt Nam và mang rất nhiều ý nghĩa. Hãy cùng thietkenhathoho.com tìm hiểu thêm về hầu đồng qua bài viết này nhé!

Hầu đồng là gì?

Hầu đồng là gì?

 

Hầu đồng là một nghi lễ thuộc về tín ngưỡng thờ Đạo Mẫu của Người Việt Nam

Hầu đồng là một hoạt động tiêu biểu trong tín ngưỡng Tứ Phủ (thờ Mẫu) được truyền lại trong dân gian Việt Nam. Đôi khi người Việt Nam còn gọi nghi lễ hầu đồng bằng những cái tên khác như hầu bóng, đồng bóng hay nghi lễ chầu văn.

Thực chất, trong quan niệm của tín ngưỡng của người theo đạo này, tôn thờ Mẫu (Mẹ) vì người là đấng sáng tạo và bảo trì cho vũ trụ, con người và nghi thức hầu đồng là để giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Shaman (giáo ông đồng, bà đồng).

Trong đó các nghi thức này, ông bà đồng sẽ trở thành nơi mà linh hồn của các vị thần thánh khác nhau “nhập” vào. Họ cho rằng các vị thần sẽ hiển linh và thực hiện các hành đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các đệ tử của mình. Lúc này, người hầu đồng hay chính là tín đồ chỉ có thân thể vẫn giữ nguyên nhưng linh hồn lại là của các vị thần. Kết thúc nghi thức, các vị thần sẽ rời đi sau khi hoàn thành tâm nguyện của các đệ tử hay khi mục đích của buổi lễ đã đạt được.

Ý nghĩa của hầu đồng

Theo quan niệm của Đạo Mẫu, nghi lễ hầu đồng là một nghi lễ vô cùng linh thiêng. Giống với các tôn giáo khác dạy ta nên người, các giáo lý mà mỗi đạo truyền đạt chính là tấm gương phản chiếu những sai lầm và đúng sai trong cuộc sống để các tín đồ của mình có thể sống sao cho tốt với người thân, tốt với xã hội. Vì thế hầu đồng giống như là chiếc chìa khóa quan trọng nhất để giúp các đệ tử mở cánh cửa tìm chiếc gương phản chiếu hoàn thiện mình.

Hay ta còn có thể hiểu rằng mỗi người đều có cho mình nơi để gửi thác tâm hồn. Đó chính là tín ngưỡng của họ, là nơi về của mỗi người khi gặp những vấn đề khó khăn. Là nơi để nhắc nhở con người ta về những quy luật cuộc sống và phải trái của sự việc giúp ta ngày càng hoàn thiện mình. Nhập đạo không hẳn là vì mong cầu sự phù hộ của các vị Thánh, cũng không phải để nâng cao năng lực thần thông cho mình mà là để giúp ta học hỏi và trau dồi thêm. Đó là một hành trình tìm kiếm tâm linh và lẽ sống qua chính bản thân mình.

Vì vậy, hầu đồng có một ý nghĩa vô cùng cao cả đó là một quá trình dài của các đệ tử phải làm sao để có thể chuyển hóa cái tâm của mình từ trong cuộc sống thành trí tuệ nhận thức đúng sai, thành thánh đức để nhìn vào những tấm gương như chư Thánh, học theo chư Thánh, khám phá và ngộ đạo, để cuộc sống chúng ta trở nên hạnh phúc vì mình cũng vì xã hội, để cho thân tâm an lạc.

Ai có thể tham gia hầu đồng?

Ai có thể tham gia hầu đồng?

 

Một lễ hầu đồng cần có Thanh Đồng, các phụ đồng cung văn cùng các con nhang, đệ tử 

Người quan trọng nhất cần phải có trong một nghi lễ hầu đồng là Thanh Đồng. Thanh Đồng chính là người giúp các chư Thánh “nhập” hồn để có thể ban lộc và hoàn thành mục đích của buổi lễ, hay người ta còn gọi những người này là người đứng giá hầu đồng. Nếu như Thanh Đồng là nam giới thì sẽ được gọi là “cậu” hoặc “ông đồng”, nếu họ là nữ giới thì được gọi là “cô” hoặc “bà đồng”. Theo sau Thanh Đồng thường có hai hoặc bốn phụ đồng, được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng. Những người này sẽ là người chuẩn bị lễ phục, lễ dâng lên Thánh… cho Thanh Đồng.

Trong một buổi lễ hầu đồng, có một thứ không thể nào thiếu đó là âm nhạc và bài hát chầu văn. Người hát chính sẽ là cung văn, họ sẽ phải xướng những bài chầu văn mang âm hưởng nghiêm trang và tâm linh. Phụ trợ cho họ là những người tấu nhạc phục vụ buổi lễ. Ngoài ra, quan trọng không kém trong nghi lễ này còn có các cử tọa. Những người này là thường là con nhang đệ tử ngồi xem tại vòng ngoài chiếu của Thanh Đồng. Họ thường thể hiện lòng tôn kính các vị thánh mỗi khi giáng xuống bằng cách hòa theo điệu múa hát và được Thánh ban lộc.

Người ta thường hầu đồng vì lý do gì?

Người ta thường hầu đồng vì lý do gì?

 

Những người có “căn” sẽ thường phải hầu đồng mỗi năm

Những người trở thành Thanh Đồng đa số là do hoàn cảnh của bản thân họ. Có thể là do gia tộc trong nhà mong muốn truyền lại nét đẹp văn hóa này hoặc họ là những người  bản tính có căn đồng. Người có “căn” thông thường đều là người bình thường, không sống trong dòng dõi theo Tứ Phủ. Vậy nên khi họ chưa ra trình Thánh thì rất hay gặp phải bệnh tật, ốm đau, mà đây là thứ bệnh “âm”, chữa chạy bằng thuốc thang rất khó khỏi dứt điểm. Có “căn” không chỉ dẫn đến bệnh tật mà còn khi làm ăn còn thường thua thiệt và khó phát triển. Dân gian gọi hiện tượng này là “cơ đày”, tức người này đang bị Thánh đày ải. Vì thế mà họ sẽ thường phải ra trình đồng để thân thể khỏe mạnh hơn và làm ăn phát đạt.

Những người có “căn” đã trình đồng hay những người trở thành cô cậu Thanh Đồng vì gia tộc sẽ phải làm lễ lên đồng hàng năm. Việc làm lễ hầu đồng sẽ tuỳ theo lịch tiết. Nhưng đặc biệt là vào dịp “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, đây là thời điểm các bà hay ông đồng thường xuyên lựa chọn để làm lễ hầu đồng nhất. 

Trình tự của một buổi hầu đồng

Hầu đồng ở các địa phương hay gia tộc khác nhau sẽ có một số lễ vật hay nghi thức khác biệt. Nhưng nhìn chung, một buổi hầu đồng đều có chung một trình tự. Để chuẩn bị buổi hầu đồng các đệ tử hay phụ đồng của Thanh Đồng sẽ đặt các lễ vật lên hương án. Sau đó, người hầu đồng sẽ để các dụng cụ lên chiếu đồng và bước lên chiếu đồng. Sau khi đã ổn định, Thanh Đồng lấy hoa xoa lên mặt, quần áo rồi vẩy xung quanh điện để tẩy đi các ô uế. Cung văn lên dây đàn, dạo nhạc và hát.

Khi nhạc đã lên, Thanh Đồng cần làm ba động tác để chính thức bắt đầu một buổi lễ hầu đồng. Đầu tiên, ông Đồng hay bà Đồng sẽ phải chắp tay lại để trước người, phụ đồng sẽ giúp họ phủ khăn diên lên đầu, khăn phải trùm cả tay. Sau đó người hầu đồng đưa tay lên trán rồi bước chân trái lên một bước. Rồi đến chân phải bước lên chụm vào chân trái, lặp lại hai lần rồi quỳ xuống. Tiếp đó, Thanh Đồng sẽ cung kính làm lễ vái dập người ba lần. Hai tay để nghiêm trang dưới chiếu, cúi sát người xuống. Sau đó đứng dậy và đi lùi ba bước về lại vị trí cũ. Lúc này, giá đệ nhất được bắt đầu.

Để bắt đầu thực hiện sang một giá khác, ông bà Đồng cần phải thay đổi lễ phục cho phù hợp với giá đó. Giống với trước đó, họ cũng bước lên chiếu đồng và cung văn cũng bắt đầu tấu nhạc. Người hầu đồng sẽ chít xoa khăn vái và ngồi xếp bằng. Phụ đồng kính cẩn đưa một chiếc khăn phủ diện màu đỏ cho Thanh Đồng. Họ cầm lấy khăn, vái vài lần rồi phủ lên đầu, mép khăn được phủ ở đầu gối. Một lúc sau, đầu của người hầu đồng bắt đầu lắc lư rồi hét lên một tiếng, chỉ ngón trỏ tay trái lên trời. Lúc này là dấu hiệu của giá quan lớn đệ nhất nhập đồng.

Trình tự một giá hầu đồng

Trong hầu đồng có tất cả 36 giá hầu đồng, trong đó trình tư của một giá hầu đồng sẽ như sau:

Lên lễ phục

Lên lễ phục

 

Lễ phục hầu đồng cần phải phù hợp với danh hiệu và phẩm hàm của vị thánh được hầu

Mỗi giá hầu đồng sẽ hầu một vị thánh khác nhau vì thế mà Thanh đồng cần phải thay lễ phục sao cho phù hợp với thân phận của vị thánh ấy. Để phân biệt danh hiệu của các vị thánh trong hầu đồng, người ta quy định màu sắc khác biệt theo tùy từng Phủ, từng gốc tích sắc tộc gốc, phẩm hàm cũng như quan văn hay quan võ.

Dâng hương hành lễ

Dâng hương hành lễ

 

Dâng hương hành lễ là một nghi thức quan trọng để xua đuổi tà ma

Nghi thức này diễn ra nhằm xua đuổi tà ma. Theo đó, đây là một nghi thức vô cùng quan trọng. Trong bất kỳ một giá hầu đồng nào cũng không thể bỏ qua nghi thức này. Tay trái của Thanh Đồng sẽ cầm một bó nhang đã được đốt sẵn, bọc trong một chiếc khăn có tẩm hương. Tay phải người hầu đồng rút một nén nhang trong đó ra rồi huơ lên trên, trong tay làm động tác phù phép mà theo quan niệm của tín ngưỡng Tứ Phủ gọi là khai nông. 

Thánh giáng

 

Thánh giáng

Người hầu đồng buông hương xuống và để Thánh nhập

Sau khi hoàn tất nghi thức dâng hương hành lễ, vị Thánh đang hầu sẽ giáng xuống và nhập vào người hầu đồng. Thanh Đồng lúc bấy giờ sẽ buông bó hương đang cầm trên tay xuống, sau đó nghiêng mình ra hiệu cho phù đồng và các đệ tử biết vị Thánh đang nhập vào là ai và thuộc thứ bậc nào. 

Thánh Giáng cũng chính là nghi lễ mà người hầu đồng đón một vị Thánh đến để phù hộ. Các Thánh khi nhập đồng cần phải được đón theo một trình tự nhất định. Trình tự này được quy định theo danh hiệu và vị trí của các vị Thánh trong Tứ phủ. Vị Thánh cao nhất, cũng là quyền lực nhất trong tín ngưỡng này là Thánh mẫu, sau đó đến các vị Quan rồi đến Chầu, Ông Hoàng, Cô và cuối cùng là Cậu. Tổng cộng có đến 50 – 60 vị nhưng không phải tất cả các vị Thánh Tứ phủ đều sẽ nhập đồng mà chỉ có một số. Nhiều nhất chỉ có 36 vị nhập đồng nên ta mới có 36 giá đồng, còn bình thường chỉ có khoảng 20 vị.

Giáng mở khăn – với các hàng quan trở xuống rồi múa đồng

Giáng mở khăn – với các hàng quan trở xuống rồi múa đồng

 

Thánh nhập vào Thanh Đồng và giúp họ nhảy múa một cách uyển chuyển

Ngay khi Thánh đã nhập vào người hầu đồng, bây giờ ông bà Đồng sẽ không còn là người bình thường nữa mà họ đang lấy thân thể phàm nhân để hiện diện cho vị Thánh đó. Vị Thánh đã nhập đó sẽ thôi miên và giúp cho người hầu đồng nhảy múa một cách uyển chuyển, nhịp nhàng mà bình thường họ không làm được. 

Đây là điểm đặc trưng của tín ngưỡng này. Tuy vậy, không phải người hầu đồng nào cũng có thể có cơ thể phù hợp để các vị Thánh nhảy múa uyển chuyển được. Các điệu múa lên đồng ở Việt Nam nhìn chung vẫn bị ảnh hưởng với các bài múa dân gian khác và đặc biệt là chèo. Tuy nhiên, nó vẫn có những điểm khác biệt đặc trưng của dòng nhạc này, điều quan trọng là nó truyền tải một thông điệp trong tín ngưỡng thờ Mẫu đó là Thánh đã nhập hồn.

Chính vì thế, mỗi một vị Thánh trong tín ngưỡng Tứ phủ sẽ có một điệu múa đặc trưng cho sự hiện diện của vị thánh đó. Do vậy mà những điệu múa trong hầu đồng khá đa dạng. Đa dạng trong cách trình bày điệu múa và cả đạo cụ múa. Để phù hợp với danh hiệu và quan phẩm của các vị thánh, người ta sẽ sử dụng các đạo cụ phù hợp với họ. Ví như, nếu vị Thánh đang giáng xuống có phẩm Quan hay Ông Hoàng, người hầu đồng sẽ sử dụng cờ, kiếm, đao hay kích. Để phù hợp với giá hầu của Bà hay Cô, Thanh Đồng sẽ sử dụng những dụng cụ mềm mại hơn là quạt, hoa, khăn tấu hay tay không. Một điểm đặc biệt nữa trong múa đồng đó là nghi lễ trước khi sử dụng đạo cụ để múa. Để thể hiện lòng tôn kính, Thanh Đồng bắt chéo hai lễ cụ lên trước trán, sau đó cúi đầu làm lễ. Khi múa xong một giá, người hầu đồng lại bắt chéo hai lễ cụ trước trán để tạ lễ.

Ban Lộc và nghe Văn chầu

Ban Lộc và nghe Văn chầu

 

Các Thánh ngồi xuống chiếu đồng và nghe hát văn chầu

Kết thúc điệu múa đại diện cho mỗi vị Thánh, Thanh Đồng lúc này đã được Thánh nhập sẽ ngồi xuống và nghe hát văn chầu hoặc thơ cổ. Các bài hát này sẽ mang âm hưởng tâm linh và trang trọng, thường lời bài hát sẽ kể về sự tích lai lịch của vị thánh đang giáng đó. Nếu như vừa ý với bài chầu văn hay thở cổ mà cung văn biểu diễn, Thánh sẽ vỗ gối và thưởng tiền cho họ. Sau đó, Thánh dùng những thứ người hầu đồng đã dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước.. để làm nghi thức khai quang. Các đệ tử và con nhang ngồi xung quanh sẽ được Thánh phát lộc. Lộc có thể là hoa quả hay trái cây…

Thánh thăng

Thánh thăng

 

Người hầu đồng ngồi xuống và khẽ rùng mình sau khi phát lộc là dấu hiệu của Thánh thăng

Kết thúc một giá hầu đồng đó là nghi lễ Thánh thăng. Dấu hiệu khi Thánh thăng đó là ông bà Đồng sẽ ngồi xuống, an tĩnh đợi. Hai tay người hầu đồng bắt chéo trước trán, quạt che lên đỉnh đầu rồi khẽ rùng mình. Thấy dấu hiệu này, người phụ hầu đồng phải cấp tốc phủ khăn diện lên đầu người hầu đồng, cung văn nổi nhạc và hát điệu thánh xa giá hồi cung. Lúc này là kết thúc của một giá đồng.

Có những giá hầu đồng nào

Theo lưu truyền trong dân gian Việt Nam từ xa xưa đến nay, có tất cả 36 giá hầu đồng và phải được hầu theo trình tự như sau:

 

1. Tôn nhang thỉnh Phật
2. Thỉnh mẫu
3. Tôn quân thần Triều
4. Thái sư nhất phẩm
5.Quan lớn đệ nhất
6.Thỉnh quan đệ nhị
7.Văn quan đệ tam
8.Thỉnh quan đệ tứ
9. Quan lớn Tuần Trang
10. Văn quan Hoàng triều
11. Chầu đệ nhất
12. Chầu đệ nhị
13. Chầu đệ tam
14. Chầu đức chúa Ba
15. Chầu chúa Thác Bà
16.Chầu đệ tứ
17. Chầu chúa Bắc lệ
18. Chầu Mười Đồng Mỏ
19. Chầu bé Bắc Lệ
20. Thỉnh ông Hoàng Cả
21. Văn ông Hoàng Ba
22. Văn ông Hoàng Bẩy
23.Văn ông Hoàng Mười
24. Thỉnh cô đệ nhất
25. Văn cô đôi thượng
26. Văn cô đôi thoải
28. Văn cô năm suối
29. Văn cô sáu lục cung
30. Thỉnh cô tám đồi chè
31. Văn cô chín Thỉnh cô mười
32. Văn cô bé
33. Thỉnh cậu hoàng cả
34. Thỉnh cậu hoàng đôi
35. Thỉnh cậu hoàng ba
36. Văn cậu hoàng bé

Nếu bạn cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc các công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian đẹp nhất.

chùa phật cô đơn

Chùa Phật cô đơn ở đâu?

Nếu là người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh, hoặc chỉ cần là người miền Nam, những người tin yêu đạo Phật hẳn đều biết đến Bát bửu Phật đài, hay còn chính là chùa phật cô đơn nổi tiếng linh thiêng. Nơi đây luôn thu hút rất nhiều tín đồ đến lễ phật và hoạt động tôn giáo, thậm chí còn là một điểm thu hút khách du lịch từ nhiều nơi vì sự tích của ngôi chùa này, Với bài viết dưới đây thietkenhathoho.com sẽ cung cấp cho mọi người thêm những thông tin hữu ích về chùa phật cô đơn

chùa phật cô đơn ở đâu?

 

<b>chùa phật cô đơn </b> ở đâu?

chùa phật cô đơn là cái tên đặc biệt mà người dân gọi khi nhắc đến Bát bửu Phật đài

Địa chỉ

chùa phật cô đơn là một cái tên đặc biệt có một không hai được dân chúng đặt và truyền lại qua nhiều năm dành cho Bát Bửu Phật Đài. Sau này, ngôi chùa ngày càng nổi tiếng hơn vi sự tích của nó thì đây cũng là cái tên được sử dụng nhiều hơn như một thói quen khi nhắc đến Bát Bửu Phật Đài. Đến này chùa đã đổi tên thành Chùa Thanh Tâm. Chùa Thanh Tâm tọa lạc tại Ấp 1, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30km về hướng Tây Nam.

Giờ mở cửa

Chù cô đơn mở cửa từ 5 sáng, và đóng cửa vào 21 giờ tối vào tất cả các ngày trong tuần. Tuy nhiên, nếu bạn là khách du lịch đến thăm quan và tìm hiểu về ngôi chùa có bề dày lịch sử này thì không nên đến quá sớm để các tăng ni chuẩn bị buổi sáng, cũng như không về quá muộn để đảm bảo an toàn.

Xem thêm: Bài văn khấn đi chùa đơn giản

Lịch sử về chùa phật cô đơn

Lịch sử về <b>chùa phật cô đơn </b>

 

Lịch sử của chùa phật cô đơn

Ban đầu, chùa phật cô đơn là một tâm nguyện lớn của một người con nhỏ nhoi tại vùng đất bên kênh Cầu Xáng – cư sĩ Lê Chí Bình. Ông đã cúng tặng một khu đất của gia định rộng 30 héc ta để tôn tạo ngôi Tam bảo làm chỗ nương tựa tâm linh cho đồng bào, trong đó kiến tạo ngôi chùa Thanh Tâm. Khu chùa được hoàn thành và an vị Phật vào ngày 12/7/1956. Cũng ngay ở đây, chùa phật cô đơn – lúc bấy giờ còn gọi là Bát Bửu Phật Đài được trồng một nhánh cây bồ đề được chiết gốc từ đại thọ bồ đề ở Benares, Ấn Độ – nơi Đức Thế Tôn tọa thiền để nhắc nhở thập phương về gốc tích của đạo thiêng. 

Bát Bửu Phật Đài là bức tượng thuộc về cấu trúc của chùa phật cô đơn . Nó được xây dựng sau khi ngôi chùa hoàn thành, bức tượng được bắt đầu tôn tạo vào năm 1959 và hoàn thành vào năm 1961. Phật đài này có kiến trúc hình bát giác, cao đến 3 mét. Trên đài, tôn trí tượng Đức Phật Thích Ca cao 7 mét, nặng khoảng 4 tấn do Hội Phật học Nam Việt tạo nên, với sự tùy hỷ hiến cúng của cư sĩ Hội trưởng Chánh Trí Mai Thọ Truyền.

Vì tượng phật được tôn tạo rất lớn cộng với các phương tiện cũng như công cụ trợ giúp thời bấy giờ có rất ít nên dẫn đến việc cung thỉnh tượng Đức Phật từ chùa Xá Lợi về Cầu Xáng là một điều vô cùng khó khăn. Lúc đó, các vị tôn đức và cư sĩ đã tiến hành tổ chức rất  nhiều buổi cầu nguyện, chuyên tâm trì tụng kinh Pháp hoa trong thời gian dài liên tục, và nhờ năng lực hộ trì đó, nhiều duyên lành huyền nhiệm đã xuất hiện, vượt qua mọi trở ngại, thành tựu tốt đẹp. Lễ an vị Phật được tổ chức vào các ngày 22 đến 25/8/1961 vào mùa Vu lan – Báo hiếu năm Tân Sửu trong sự hoan hỷ của đông đảo Tăng Ni, Phật tử tại đây.

Vào tháng 3 năm 2017, chùa phật cô đơn được quyết định kiến thiết lại toàn diện. Cùng thời gian, ngôi chùa đã tổ chức lễ đặt viên đá xây dựng đầu tiên, đánh dấu cho sự chuyển mình hoàn toàn của nó. Ngôi chùa được quay trở về với tên gọi ban đầu là Thanh Tâm, trở thành cơ sở nội trú cho Ni giới tu học trang nghiêm, thanh tịnh, bên cạnh cơ sở 2 của Học viện, một trong 4 trung tâm đào tạo Tăng Ni lớn của Giáo hội. Đến năm 2019, sau một thời gian rất dài, chùa Thanh Tâm đã được xây dựng và hoàn thiện hoàn toàn.

Sự tích chùa phật cô đơn

Sự tích <b>chùa phật cô đơn </b>

 

Trải qua gần 20 năm bom đạt, Đức Phật vẫn sừng sững an nhiên tại đây.

Những năm tháng chiến tranh kéo dài giữa nước ta với đế quốc Mỹ, chùa phật cô đơn đã phải hứng chịu rất nhiều những lần oanh tạc của bom đạn. Vào khoảng tháng 2 năm 1965 chùa Thanh Tâm đã bị hư hỏng phần mái do lửa của trái sáng từ máy bay thả xuống. Đến tháng 11 năm 1965 ngôi chùa này lại một lần nữa bị bom dội xuống và chỉ còn lại phần nền chùa. Nhưng một sự màu nhiệm diệu kỳ, chỉ có kim thân của Đức Phật vẫn sừng sững đứng yên lặng ở đó như cầu nguyện cho cả vùng. Đức Phật lẳng lặng an tính nhìn xuống nhân gian khói lửa, an nhiên một mình giữa cánh đồng. 

Sau ngày thống nhất đất nước 30 tháng 4 năm 1975, tiếng súng im bặt trên cả nước cũng như ở đây đã dừng lại, nhưng khu vực Bát Bửu Phật Đài vẫn ít người lai viếng, nên vẫn còn rất hoang vắng, vẫn luôn chỉ có Đức Phật sừng sững tại đây.

Vào năm 1976, đất nước dần dần ổn định sau chiến tranh, người dân cũng theo các chiến dịch làm thủy lợi, dân chúng trong độ tuổi quy định phải đều tham gia đóng góp 15 ngày công lao động/năm. Có đến hàng trăm, hàng ngàn thanh niên nam nữ đến từ những thành phố khác nhau, cùng với thanh niên xung phong khăn gói áo quần mang theo lương thực tỏa ra các vùng nông thôn còn hoang hóa để làm thủy lợi đào kênh thông nước loại phèn chua. Khu vực nơi mà chùa phật cô đơn tọa lạc cũng là một nơi được chọn làm thí điểm. Đoàn người chia nhau theo đội để làm việc, mỗi đội phụ trách một khu vực. 

Đến giờ nghỉ ngơi, đoàn người lại tìm những nơi có bóng mát để nghỉ chân hay nấu nướng. Có những người hay một đội nào đó lao động tại khu vực có tượng Phật lộ thiên, họ may mắn tìm được chỗ râm mát, liền vào nghỉ bên dưới Phật đài. Theo chân họ từ bậc thang lên Phật đài, Đức Phật vẫn luôn là khuôn mặt hiền từ bao dung nhìn những người con đến từ xứ lạ. Mang một tấm lòng kính ngưỡng Đức Phật, đoàn người chắp tay cúi đầu xá tượng Phật. Nhưng đồng thời, trong lòng cũng tràn đầy thắc mắc vì sao lại chỉ có một mình tượng Phật lẻ loi không chút hương khói tại nơi hoang vắng này? Nhìn thấy cảnh tượng như vậy, đoàn người bỗng nghĩ đến hình ảnh Đức Phật “cô đơn”, ngài luôn ở tại nơi đây với khuôn mặt khoan dung đó đợi ngày có những người con đến thăm viếng mình.

Hết thời hạn làm việc, những tốp người cũng dần trở về thành phố, về nơi mà họ sinh sống. Lúc trở về có ngang qua thôn xóm hay những lúc ngồi trên xe họ nhỏ to với nhau chuyện gặp tượng Phật Cô đơn. Khi về đến nhà, họ cũng truyền tai nhau về hình ảnh Đức Phật cô đơn tại nơi mà họ làm thủy lợi. Có những người nổi lên sự tò mò, họ tìm kiếm và đến với Đức Phật, xem ngài có cô đơn như lời đồn. Cứ thế một người, mười người rồi trăm người ngàn người dần đến với người nhiều hơn, cái tên Phật cô đơn cũng lan tỏa vào ý thức của các Phật tử. Nhưng bây giờ, Đức Phật ở chùa Thanh Tâm không còn cô đơn nữa vì ngài vẫn luôn được nhiều người con từ khắp mọi miền đến thăm, ngài phù hộ độ trì cho những người ấy kiếp sống bình an và đường tình duyên không bao giờ cô đơn.

Kiến trúc chùa phật cô đơn

Kiến trúc <b>chùa phật cô đơn </b>

 

chùa phật cô đơn có kiến trúc đẹp như thế nào?

chùa phật cô đơn không chỉ nổi tiếng vì sự tích màu nhiệm của nó, mà còn bởi vi kiến trúc cổ của chùa chiền ngày xưa vẫn còn lưu lại những ấn ký của năm tháng tại đây. Tuy đã trải qua kiến thiết lại toàn diện, nhưng chùa phật cô đơn vẫn còn nhiều nét nguyên sơ, cổ kính.

Người nào đã tác tượng Phật cô đơn

Xuất xứ của pho tượng này thực ra khá bất ngờ. Ban đầu, vốn dĩ bức tượng này không thuộc về chùa Thanh Tâm ngày nay mà là thuộc về chùa Xá Lợi cũng nằm ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo tư liệu từ chùa Xá Lợi thì khi ngôi chùa này mới bắt đầu xây, giáo sư Trương Đình Ý đã xây dựng một pho tượng được thực hiện bằng xi măng và thạch cao. Tuy nhiên pho tượng đúc xong quá lớn nên họ không thể đưa lên chính điện trên lầu được. Vì thế chùa Xá Lợi đã nhượng lại cho chùa khác (nay là tượng Phật cô đơn tại chùa Thanh Tâm ở huyện Bình Chánh).

Kiến trúc đặc biệt của chùa

Trải qua tủ sửa và kiến thiết lại vì ảnh hưởng bởi chiến tranh khốc liệt, chùa Thanh Tâm ngày nay vẫn may mắn giữ lại những nét nguyên sơ, cổ kính. Ngôi chùa vẫn được tái hiện lại theo đặc trưng của những ngôi chùa cổ tại Việt Nam, đó là vườn bạch đằng xanh mướt bao trùm lên cả khu chùa. Tổng thể kiến trúc của chùa được xây dựng trên một mảnh đất khoảng hơn 30ha. Chính vì vậy, mọi không gian trong chùa các khu điện thờ đều vô cùng khang trang, thoáng mát và rất rộng rãi.

Khi vừa bước đến chùa, du khách sẽ được hòa mình vào thiên nhiên thông qua cánh rừng bạch đàn xanh ngát. Nếu đến đúng vào giờ các tăng ni đánh chuông bạn còn có thể nghe những tiếng ngâm cổ kính từ chuông chùa và mùi nhang hương thoang thoảng. Sau khi xuyên qua cánh rừng này, Cổng Tam Quan chắc chắn sẽ là kiến trúc đầu tiên mà du khách nhìn thấy. Cổng Tam Quan của chùa được xây dựng rất cao, to và vô cùng trang nghiêm với những đường trạm trổ uốn lượn và vô cùng tinh xảo.

Sau khi đi qua cánh Cổng Tam Quan nguy nga đó, du khách sẽ được tiếp tục chiêm ngưỡng khuôn viên của chùa rộng khoảng 5 héc ta. Vì có một khoảng không gian rộng lớn như thế nên đây là nơi mà ngôi chùa trưng bày và thờ rất nhiều tượng phật khác nhau.

Khi kết thúc con đường dài trên khuôn viên rộng lớn của chùa, chúng ta sẽ di chuyển vào bên trong chánh điện. Đây là nơi mà chùa thờ tụng tượng phật Di Đà, kế bên đó là tượng phật Tiêu Diện và thần Hộ Pháp. Gần với khu chánh điện là các khu điện thờ khác, tại đây sẽ cung thờ tượng phật bồ tát Chuẩn Đề, tượng phật Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng phật Di Lặc, tượng Địa Tạng cùng rất nhiều những pho tượng phật khác được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Bước ra khỏi khu chánh điện, phía bên cạnh tượng Phật Cô Đơn, du khách sẽ nhìn thấy một điện thờ Đức Thánh Quan Công. Di chuyển tiếp là điện thờ vị tổ sư Thích Thiện Bổn, đền thờ ông Hổ…

Chỉ trong vài lời văn, câu miêu tả hay những bức ảnh, thật khó để có thể lột tả được sự tinh xảo và nguy nga của chùa phật cô đơn . Nếu có cơ hội, bạn hay đến đây và tự trải nghiệm vẻ đẹp cổ kính và Đức Phật nổi tiếng này.

Những lưu ý khi đến chùa phật cô đơn

Những lưu ý khi đến <b>chùa phật cô đơn </b>

 

Bạn nên có một số lưu ý khi đến thăm quan và làm lễ tại chùa phật cô đơn .

Cung giống như bao ngôi chùa khác tại Việt Nam cũng như trên thế giới, khi đến với chùa phật cô đơn – là một chốn linh thiêng thì bạn không nên ăn mặc những trang phục quá màu mè và gây phản cảm làm mất đi tính trang nghiêm vốn có của chùa. Đặc biệt là những bộ váy ngắn, hay quần đùi thậm chí là quần lửng. Tốt hơn hết để tỏ lòng thành tâm khi đi cầu nguyện bạn có thể đầu tư một bộ quần áo bà bà hay phật tử khi đến đây.

Hiện nay, có rất nhiều bạn trẻ đến chùa để có cho mình những bộ ảnh hoài cổ sống ảo trên mạng xã hội. Đặc biệt, chùa phật cô đơn còn là một địa điểm nổi tiếng. Nhưng mục đích quan trọng nhất khi đến chùa là cầu nguyện, bạn nên thành tâm cầu bình an và tận hưởng vẻ đẹp an lạc, linh thiêng thay vì mải mê chụp ảnh.

Một điểm bạn nên lưu ý khi đến chùa phật cô đơn nữa là không nên tùy tiện sờ hay đụng chạm thậm chí là việc lấy bất cứ đồ vật nào trong chùa mà không có sự cho phép. Bạn nên hỏi những tăng ni hay phật tử tại đây trước khi xin lấy lộc hay xin đồ kỷ niệm gì đó trước khi lấy, còn không nên lấy tự nhiên hành khi không được sự cho phép của nhà chùa vì chùa Thanh Tâm vốn là một nơi linh thiêng.

Quang cảnh của chùa cũng là điều mà mọi người khi đến chùa nên giữ gìn cẩn thận, đặc biệt là chùa phật cô đơn còn có lịch sử khá lâu. Bạn không nên dẫm đạp lên cây cối, hoa cỏ hay bàn ghế trong chùa. Vứt rác đúng nơi quy định để tránh làm ô nhiễm môi trường. Và đừng quên là nên xin phép trước với ban quản lý nhà chùa để được sự đồng ý nếu muốn quay phim, chụp hình.

Đến chùa phật cô đơn cầu gì?

Đến <b>chùa phật cô đơn </b> cầu gì?

 

Nên cầu gì khi đến chùa phật cô đơn ?

Mọi người khi đến chùa hầu như đều nghĩ sẽ cầu bình an, may mắn và hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Nhưng mỗi ngôi chùa đều linh nghiệm về những việc khác nhau. Người dân trong vùng và các du khách đã đến thăm trước đó cho rằng đây là ngôi chùa rất linh thiêng về tình duyên cũng bởi vì cái tên độc đáo chùa phật cô đơn .

Họ tin rằng Đức Phật sẽ ban phước cho những người cầu nguyện tại đây có đường tình duyên thuận lợi viên mãn sớm thoát sự cô đơn trong tình yêu. Đó là lý do mà trong những ngày rằm hàng thay hay đầu tháng, đặc biệt là trong ngày lễ tình nhân 14/2 có rất nhiều người đến đây để xin một con đường tình yêu thuận lợi.

Trên là những thông tin bổ ích về Phật Cô Đơn do thietkenhathoho.com sưu tầm từ nhiều nguồn uy tín hy vọng bài viết giúp ích được phần nào trong việc cung cấp thông tin cho quý độc giả. Nếu bạn cần thiết kế nhà thờ họ hoặc các công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có không gian tâm linh hoàn hảo nhất.

kinh kim cang

Kinh Kim Cang là gì?

Đối với người Phật giáo, tụng kinh tu hành là điều bắt buộc phải có. Mỗi loại kinh sẽ hướng đến đối tượng và mục tiêu khác nhau nhưng về cơ bản đều là muốn người luyện có  cuộc sống tốt hơn. Trong đó, Kinh Kim Cang là kinh phổ biến và được ưa chuộng nhất. Hãy cùng thietkenhathoho.com đi tìm tìm sâu hơn về loại kinh này. 

Kinh Kim Cang là gì?

Kinh Kim Cang là gì?

 

Cuốn Kinh Kim Cang

Kinh Kim Cang là bài kinh cơ bản và có tầm ảnh hưởng nhất của Phật Giáo. Quyển kinh có tên gọi khác là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa được tìm ra từ những năm 1907 tại hang động gần Đôn Hoàng, Trung Quốc

Đối với người tu Thiền Tông, Kinh Kim Cang là một bài kinh cơ bản và bắt buộc. Nó chứa đầy đủ những điều tinh túy, cốt lõi nhất của Giáo Lý Bát Nhã. Bài kinh còn được coi là một quyển bí kíp giúp chúng sinh thoát khỏi ưu sầu, phiền não trong cuộc sống

Nguồn gốc, xuất xứ của Kinh kim cang

Nguồn gốc, xuất xứ của Kinh kim cang

 

Nguồn gốc Kinh Kim Cang

Là quyển thứ 577 trong 600 quyển thuộc trong tập Đại Bát Nhã Ba. Tập này được Cưu-Ma-La-Thập dịch từ chữ Phạn sang Hoa ngữ rồi lại được hòa thượng Thích Trí Tịch dịch sang bản tiếng Việt. Vì vậy, nhiều người lầm tưởng rằng bộ Kinh có nguồn gốc từ Trung quốc nhưng thật sự không phải vậy, đến nay nguồn gốc của kinh vẫn còn là dấu hỏi lớn.

Theo ghi chép mới nhất gần đây, Kinh Kim Cang có nguồn gốc từ Ấn Độ và nó rất được thịnh hành dưới triều đại Kouchan – Thế kỷ I sau Công Nguyên. Theo Edward Conze – triết gia, nhà Phật học nổi tiếng thế giới, Cuốn Bát Nhã Ba La Mật Đa đã có từ 10 thế kỷ trước. Cụ thể:

  • Giai đoạn hình thành kinh ( Năm 100 trước Công Nguyên –  Năm 100 sau Công Nguyên): Các mấu chốt, cơ sở kinh được đúc kết 
  • Giai đoạn bổ sung kinh ( Năm 100 – 300 sau Công Nguyên ): Những phần cơ sở lúc trước được chắt lọc lại và bổ sung cho độ chính xác cao
  • Giai đoạn phát triển kinh ( Năm 300 đến 500 ): Dựa vào những cơ sở đã lập, các tu sĩ bắt đầu bồi đắp, hình thành nên những bài kinh ngắn có vần điệu với nhau.
  • Giai đoạn hoàn thành kinh (Năm 600 – 1200): Bộ kinh được chỉnh sửa thêm và đưa ra bản hoàn thiện nhất. Giai đoạn này, Mật Tông cũng xuất hiện khiến bộ Kinh giảm đi độ phổ biến.

Do đã có nguồn gốc từ lâu đời, nên những cột mốc ra đời của Kinh vẫn chưa được xác thực. Các học giả người Nhật cho rằng, bộ Kinh này gồm những bài kinh cổ xưa nên nó phải được xuất phát từ rất sớm. Do vậy, đến bây giờ nguồn gốc của Kinh Kim Cang hay bộ Bát Nhã Ba La Mật Đa vẫn là một bí ẩn lớn.

Ý nghĩa của  Kinh kim cang

Ý nghĩa của  Kinh kim cang

 

Ý nghĩa Kinh Kim Cang 

Ý nghĩa tên Kinh Kim Cang

Kim Cang khi dịch sang tiếng Việt nghĩa là Kim cương – là một loại khoáng sản rất có giá trị ở Việt Nam. Để tạo thành kim cương, những khoáng chất có chứa cacbon sẽ được đè nén ở nhiệt độ 1200°C và áp suất rất cao (5 gigapascal) trong độ sâu 150km. Hơn nữa, phải tốn đến 3,3 triệu năm mới ra được kim cương đạt tiêu chuẩn với độ đẹp như pha lê, cứng rắn cắt dứt được cả thép.

Cũng giống như luyện kinh vậy, người tu phải có quá trình tu luyện gian lao trong suốt nhiều năm liền mới có thể tu thành chính quả. Vì vậy, cái tên Kinh kim Cang ra đời từ đấy.

Ý nghĩa cuốn Kinh Kim Cang

Đối với các Phật tử, người tu học Thiền, Kinh Kim Cang là cuốn kinh cơ bản nhất. Bao gồm những bài kinh cô đọng, tinh túy khiến người học như được khai ngộ. Chính hai vị vua Trần Thái Tông và Lục tổ huệ năng cũng sử dụng cuốn Kinh và đạt được đại ngộ.

Những bài kinh thâm thúy nhưng đối với người tu là sự khai sáng. Muốn luyện được, phải thả hồn, tập trung sâu vào Kinh khiến những kiến thức, định kiến ban đầu không hữu ích bị xóa bỏ để đến với con đường tu hành gian lao, vất vả.

Cấu trúc bài  Kinh kim cang

Cấu trúc bài  Kinh kim cang

 

Bản gốc cấu trúc Kinh Kim Cang

Ở thời Phạn, quyển kinh viết liền mạch không phân chia mục rõ ràng, nhưng khi được dịch sang tiếng Hoa đã được Thái tử Chiêu Minh chia làm 32 mục nhỏ cho dễ học. Tuy nhiên, cũng có nguồn tin cho rằng, thực chất, vào cuối thế kỷ thứ IX, các mục của quyển kinh được chia ra là do một người họ Quá ở Tứ Xuyên, Trung Quốc.

 

Phổ biến hơn cả bản tiếng Hán với 1544 câu được chia làm 52 đoạn. Mỗi đoạn sẽ đều có 3 phần mở đầu, nội dung và kết thúc bài. việc chia nhỏ các đoạn giúp người tu dễ dàng hơn khi luyện. Tuy nhiên, đòi hỏi tu thành chính quả thì người tu cần phải hiểu, nắm được trọng tâm của kinh.

Khi luyện kinh, người luyện sẽ thấy rõ bố cục các phần, các đoạn, các bài khá rời rạc nhau không thống nhất, mỗi bài đều sẽ có trọng tâm, chiều sâu riêng. Việc này đòi hỏi người tu phải có tinh thần tập trung cao độ, không chỉ dừng lại ở mức độ đọc hiểu kinh mà còn phải hòa mình vào, gắn kết các chuỗi kinh không liên quan thành một thể thống nhất.

Có thể nói việc tu Kinh kim cang là không hề dễ dàng. Người luyện phải vận dụng trí tuệ, khả năng suy luận, phân tích và hơn thế là bằng cả trái tim để  thấm những nội dung truyền tải trong đó. Các bài kinh ngắn không đơn giản là mấy trăm chữ như cuốn kinh bình thường, các bài Kinh trong Kinh Kim Cang dài tận 7000 chữ gồm cả những phần trùng lặp nên dễ gây đến sự khó hiểu cho người luyện. 

Tuy nhiên, đúng như cái tên Kinh Kim Cang, muốn tu thành chính quả, muốn đạt đến đại ngộ thì phải kiên trì, cố gắng luyện tập như quá trình tôi luyện khắc nghiệt để tạo ra một mảnh kim cương.

Lợi ích khi tụng  Kinh kim cang

Lợi ích khi tụng  Kinh kim cang

Lợi ích khi luyện Kinh Kim Cang

Vãng sanh cực Lạc

Truyện 1:

Tại thời nhà Đường, năm 650, Sư Thích Minh Tuấn không may qua đời. Khi chết, ông bị hai tên áo xanh dẫn đến gặp Diêm Vương. Ngài hỏi:

  • Sư tu môn nào?

Ông đáp: “ Tôi tụng kinh Kim Cang”. Diêm Vương nói: “ Nếu ngườii đã tụng đến trình độ này, chắc năm sau sẽ về Tịnh Độ, đệ tử chẳng được thấy thầy nữa!” nói xong rồi thả ông về. Từ đó, ông càng thêm nỗ lực tu luyện. Đến tháng Ba năm 651, Sư Thích Minh Tuấn qua đời trong tư thế ngồi, xung quanh ông toát lên mùi hương lạ.

( Trích sách Kim Cang Trì Nghiệm)

Truyện 2:

Vào thời Minh, ở trấn Song Lâm, Hồ Châu có người phụ nữ là Phí Thị. Chồng bà mất từ trẻ,  bà dệt vải để kiếm sống. Bà ăn chay mấy chục năm, thờ phụng tượng Phật và tượng Đại Sĩ bằng đàn hương. Hằng ngày, bà tụng quyển kinh Kim Cang, niệm Phật một ngàn câu. Dù tiết trời nóng hay lạnh chẳng bỏ sót.

Bấy giờ trong làng có trận đại dịch lớn, bà phải chuyển sang sống trên lầu ở nhà người con rể. Lúc đến, bà chỉ mang tượng Đại Sĩ theo rồi hàng ngày, bà ngồi thắp hương, tụng kinh, niệm Phật.

Ba năm sau, những người xung quanh thấy trên lầu nơi bà niệm kinh thấy có hình tượng Phật trang nghiêm, tinh túy. Mọi người bắt đầu đến xem càng lúc càng đông. Có người còn tưởng rằng ai vẽ nên lau thử, nhưng càng lau hình Phật càng sáng và rõ hơn. 

 

Cứ như thế suốt bốn năm, một hôm, bà trở về chỗ ở cũ dọn dẹp lại, thắp hương, tụng kinh, lễ Phật. Ba hôm sau, bà tắm gội sạch sẽ và tiếp tục tụng kinh, niệm Phật. Đến giờ Ngọ, bà mở cửa sổ ra chào mọi người: ” Phật đến rồi, ta đi đây” rồi ngồi xuống nhắm mắt lại. Bà thọ 70 tuổi

Thoát khỏi sự đen đủi, chết chóc

Ở đời Đường, Lý Khưu Nhất làm quan tại huyện Cao Bưu. Ông có sở thích đi săn trong rừng. Một hôm, ông chết rồi bị lôi đến gặp Diêm Vương. Các loài chim, thú trong rừng bị ông săn bỗng nói tiếng người đòi ông trả mạng. Ông sợ quá, nói: “Tôi từng chép một quyển kinh Kim Cang”. 

Diêm Vương liền sai lục tìm tài liệu kinh, quả nhiên thấy kinh của ông. Diêm Vương nói: “Ông đã tu luyện kinh này rồi, công sức bỏ ra như tối thượng”, rồi gọi những con vật kia lại để trình bày, xin chúng cho ông Lý tạ lỗi. Khưu Nhất hứa sẽ  chép một trăm quyển kinh nữa, để chuộc tội. Các loài chim liền đồng ý, cho ông về.

Lúc này, thân thể ông đang ở trong quan tài, mở nắp sống dậy làm ai cũng kinh ngạc. Đồng thời, sau khi nghe truyện , Vua cũng thăng chức cho ông lên Ngũ Phẩm, giữ chức Chiêu Thảo Sứ ở Gia Châu.

Theo Báo Ứng Ký

Tăng cường sức đề kháng, khoẻ mạnh, lành bệnh

Đời Đường, tại Khai Châu có người tên Câu Long Nghĩa thấy bạn đang chép kinh Kim Cang, hắn liền tùy tiện xé đi. Chẳng mấy lâu sau, hắn bị câm vô. Một hôm, hắn nghe thấy hàng xóm tụng kinh, thấy giống kinh trước liền nhớ lại. Hắn tự trách, sau liền nép sát vào vách để nghe trộm.

Một tháng sau, hắn vào một ngôi chùa, nhìn thấy một vị Tăng liền kính lễ. Vị Tăng hỏi hắn có chuyện gì? Hắn liền chỉ vào miệng mình. Sau đó, Tăng liền dùng dao khứa vào lưỡi hắn, từ đó hắn nói được. Vừa hối lỗi, vừa biết ơn, hắn quay về bắt đầu niệm kinh Kim Cang như hàng xóm. 

Một hôm, hắn đến ngôi chùa đó định thăm vị Tăng kia nhưng hỏi mãi mà không ai thấy. Mệt mỏi, hắn liền ngồi lễ Phật trước, để ý thấy hình ngài Tu Bồ Đề vẽ trên vách giống hệt vị Tăng kia. Từ đó, hắn liền chép kinh và vẽ hình ngài Tu Bồ Đề, suốt đời cúng bái (Theo Báo Ứng Ký)

Giúp người tu an lành, thoát kiếp nạn

Tại đời Đường, có một thương lái hàng ngày đều tụng kinh Kim Cang. Ông luôn mang quyển kinh theo bên mình để niệm kinh lúc rảnh. Do hoàn cảnh, ông thường buôn bán ở nước ngoài, đêm ngủ tại hải đảo. Thấy ông có nhiều tài sản, đám lái buôn tham lam bèn lập mưu để sát hại ông. Nhân lúc đêm tối, chúng nhét ông vào cái sọt lớn, thả thêm đá to vào rồi quăng ông cùng cuốn kinh chìm sâu xuống biển.

May thay, bên cạnh đó có một ngôi chùa lớn.  Các sư tăng hàng đêm đều nghe thấy tiếng người niệm Kinh Kim Cang dưới đáy biến. Thấy lạ, họ bèn thuê người lặn xuống tìm thử. Chẳng bao lâu, họ kéo lên một cái sọt to, người thương lái được cứu ra ngoài.

Ra ngoài, ông kể ” Tôi biết mình bị giết vứt xuống biển, nhưng không rõ bị cho vào sọt. Chỉ thấy khi ở dưới đó, tôi như sống trong cung điện, hàng ngày có người mang đồ ăn đến, không tìm được lối ra nên lấy kinh ra niệm”. Sau đó, ông liền xin vào chùa, xuống tóc xuất gia.

(Trích Công đức tụng Kim Cang Trì Nghiệm)

Cảm hoá được vạn vật

Thời đại nhà Tùy, trong thôn Vương Lý xuất hiện những bài Kinh Kim Cang được viết chữ rất đẹp tại nhiều nơi ở khu phía Đông. Thì ra, đó là do một chàng thư sinh họ Tuân viết mong muốn cho mọi người đọc và hiểu nhiều thêm về kinh.

Trong lúc trời mơ to gió lớn, bọn trẻ thấy nơi ông đứng viết Kinh không hề bị nước mưa hắt vào, khô ráo đến lạ lùng. Bọn trẻ và người trong thôn lấy làm lạ, truyền đạt đến tai nhau. Không ai bảo ai, lúc mơ mọi người đều đứng ở gần đó để khỏi bị ướt. 

Một hôm, có một vị cao tăng đi qua, nói với người trong thôn: ” Trên không trung có Kinh Kim Cang, người giăng lọng che trên đó, không nên lại gần xúc phạm”. Nhận thức được điều này, dân bàn nhau rào lại để bảo vệ. Mỗi khi đến ngày ăn chay, cư dân lại cùng nhau ra cúng Phật, niệm kinh cầu bình an.

Tài liệu về  Kinh Kim Cang

Tài liệu về  Kinh Kim Cang

 

Tài liệu về Kinh Kim Cang

Kinh Kim Cang ngày xưa rất quý và hiếm lắm mới có người sở hữu được, nhưng hiện nay thì khác. Công nghệ ngày càng phát triển nên hiện tại quyển kinh đã có cả bản pdf và bản mp3

Tài liệu Kinh Kim Cang file pdf

Đối với người chuyên tâm tu luyện, muốn hiểu kỹ và rõ về cuốn Kinh sẽ thường thích tự đọc và tìm hiểu nhiều hơn. Cuốn tài liệu pdf sẽ giúp người tu luyện có thể học mọi lúc mọi nơi chỉ bằng điện thoại hay laptop… hoặc có thể photo ra bản giấy để dễ dàng niệm kinh.

Nếu bạn muốn đọc quyển Kinh Kim Cang: Link tải an toàn qua google Drive tại đây

Tài liệu Kinh Kim Cang file MP3

Đối với những người bận rộn, có ít thời gian hoặc ít khi đọc sách thì tài liệu audio sẽ là một lựa chọn tuyệt với giúp bạn có thể vừa niệm kinh vừa thư giãn, nghỉ ngơi sau ngày làm việc dài.

Nghe audio Kinh Kim Cang Phần 1: Link tải an toàn qua google Drive Tại đây

Có thể thấy, Kinh Kim Cang không chỉ đơn thuần là một cuốn sáng mà nó còn chứa trong đó rất nhiều giáo lý, rèn luyện, tính kiên cường của người tu hành. Với những lợi ích vô cùng lớn mà nó mang lại, đây quả thực là một cuốn sách độc nhất, một cuốn kinh tuyệt diệu mà Đức Phật ban cho nhân loại để cứu vớt chúng sinh.

Nếu bạn cần tư vấn thiết kế những công trình nhà thờ họ, công trình đình chùa, các công trình thờ tự tại gia có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tối sẽ tư vấn giúp bạn có những không gian đẹp nhất.

Phổ hiền bồ tát là ai

Đức phật Phổ Hiền bồ tát là ai?

Bên cạnh vi Đức Phật tối cao là Thích Ca Mâu Ni (hay người Việt Nam còn thường gọi là Phật tổ Như Lai) còn có hai người được xem là cao đồ của ngài luôn theo làm thị giả. Đó là hai vị bồ tát đức Văn Phù Sư Lợi và Đại Hạnh Phổ Hiền. Với bài viết này, Hãy cùng thietkenhathoho.com đi tìm hiểu về vị bồ tát Phổ Hiền và phân biệt sự khác nhau giữa hai vị thị giả của Đức Phật.

Phổ Hiền bồ tát là ai?

Phổ Hiền bồ tát là ai?

 

Phổ Hiền bồ tát là một trong Tứ đại bồ tát của Phật giáo Đại Thừa

Phổ Hiền được tôn xưng là vị bồ tát nằm trong tứ đại bồ tát  luôn phò tá và trợ giúp Phật tổ phổ độ chúng sanh. Bên cạnh Quán Thế Âm bồ tát nổi tiếng kể cả với những người không theo đạo Phật, tứ đại bồ tát còn có ba vị bồ tát khác là Văn Thù, Địa Tạng và Phổ Hiền. Trong đó, Văn Phù bồ tát và Phổ Hiền bồ tát là hai vị thị giả luôn song hành cùng Phật tổ nên thường có rất nhiều người bị nhầm lẫn. Ngài là người hộ vệ của tất cả những người tuyên giảng đạo pháp. Phổ Hiền bồ tát đại diện cho sự “Bình đẳng tính trí”, tức  trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt. Vì thế ngài là vị bồ tát đại biểu cho lý, định, hạnh, có nghĩa là ngài cũng là người nắm giữ lý đức, định đức và hạnh đức của các chư Phật. Ngài dạy rằng nếu chúng sinh nào nghe danh hiệu ngài; thấy và chạm đến thân ngài; hay nằm mộng thấy ngài; hoặc tưởng niệm đến ngài trong một ngày đêm hay nhiều hơn thì không còn thối chuyển. Chúng sinh nào nghe thấy thân ngài thanh tịnh thì tất được sinh trong thân thanh tịnh. Hằng năm, các tín đồ Phật giáo tại Việt Nam đều cử hành lễ vía ngài đản sanh vào ngày hai mươi mốt tháng hai âm lịch và lễ vía ngài thành đạo vào ngày hai mươi ba tháng tư âm lịch.

Sự tích về Phổ Hiền bồ tát

Sự tích về Phổ Hiền bồ tát

 

Phổ Hiền bồ tát là người con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm tại cõi San đề lam

Trước khi bước vào cửa Phật, Phổ Hiền bồ tát là thái tử Năng đà nô của cõi San đề lam, cũng là đứa con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm. Khi lớn lên, ngài được vua cha khuyên bảo hay đi phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và chúng sanh trong 3 tháng. Thấy lòng thành tâm của thái tử, quan đại thần Bảo Hải (một người tinh thông tinh văn) liền khuyên rằng: “Nay Điện Hạ có lòng làm được việc công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề mà cầu được thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi cõi Nhơn, Thiên, vì cõi ấy còn ở trong vòng sinh tử”.

Sau khi nghe được lời của vị quan đó, đức Phổ Hiền lúc bấy giờ còn là thái tử liền lập tức bạch với Phật Bảo Tạng (con trai của vị quan đại thần BẢo Hải): “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong 3 tháng, xin hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Giác, nguyện phát tâm Bồ Đề, tu hạnh Bồ Tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh được thành Phật đạo; và nguyện được cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai vậy”.

Nghe được lời phát nguyện thành tâm của thái tử, Phật Bảo Tạng liền liền thọ ký rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật đạo. Trong khi tu Bồ Tát đạo, dùng trí kim cang mà phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt hiệu ngươi là Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trãi hằng sa kiếp làm nhiều công việc Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyền ở phương Đông mà thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu nguyện thảy đều như ý”.

Ngay sau khi, Phật Bảo Tạng Như Lai thọ ký, bỗng nhiên ở giữa không trung có nhiều vị Thiên Tử từ các cõi Trời mang rất nhiều các loại bông thơm lạ mắt đến cúng, bày tỏ sự đồng thinh khen ngợi đối với thái tử Năng đà nô

Tiếp nhận sự khen ngợi của chư vị Thiên tử và đức Phật, thái tử liền thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những sự ao ước của tôi ngày sau quả nhiên được như lời Ngài thọ ký, nay tôi kính lễ Ngài và Chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt, rất thơm, mùi bay khắp trong các cõi; và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục, ngạ quỷ cùng súc sanh, cho đến các người ở cõi Thiên Thượng nhân gian đương mắc phải nghiệp báo gì, nếu ngửi được món hương thơm ấy, tức thì đều được thoát khổ và lại hưởng sự an vui”.

Khi thái tử thành tâm thưa với đức Phật Bảo Tạng và cúi đầu làm lễ, lòng đầy vui mừng mà ngồi xuống nghe ngài thuyết phát. Thì một lần nữa hương thơm nức từ các cõi mười phương lại bay đến, tỏa ra những từng luồng khí dịu mát làm mọi loại chúng sanh đều được hưởng ân từ thái tử. Ai ai cũng cảm thấy lòng dạ hớn hở, các phiền não đều tiêu trừ hết thảy. 

Nhờ công đức đó, thái tử Năng đà nô liền ngộ đạo. Từ bấy giờ tiến vào luân chuyển các kiếp đời và cõi khác nhau bằng thân sinh ra từ mạng chung, ngài lúc nào cũng nhớ lời thệ nguyện mà chăm làm Phật sự và hóa độ chúng sanh. Ngài cầu mong sao cho mau chóng viên mãn những gì mình đã ao ước, phát nguyện. Chính vì có lòng tu hành như vậy, thái tử nay đã thành Phật ở cõi Bất Huyền và luôn hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh.

Lý giải các ý nghĩa liên quan đến Phổ Hiền bồ tát

Lý giải các ý nghĩa liên quan đến Phổ Hiền bồ tát

Phổ Hiền bồ tát đại biểu cho “Bình đẳng tính trí”

Phổ Hiền Bồ Tát là vị đức Phật dẫn lối cho chúng sanh nhận ra chân lý, tránh xa những ảo vọng vô lý, vô minh. Hướng con người đến cảm xúc chân thật của cuộc đời, không sa ngã vào những điều vô thực, biết nhìn thẳng vào sự thật và chấp nhận nó. 

Ý nghĩa tên gọi

Phổ Hiền có dịch âm là Tam mạn đà Bạt đà la hoặc cũng có thể đọc là Tam mạn đà Bạt đà. Trong đó, Phổ có nghĩa là phổ biến hay rộng khắp, Hiền có nghĩa là Đẳng Giác Bồ tát. Vì thế, Phổ Hiền có nghĩa là vị Bồ Tát Đẳng Giác sở hữu năng lực hiện thân trên khắp mười phương pháp giới. Tìm đến những mong cầu của chúng sanh trên mọi cõi để hóa độ.

Ý nghĩa biểu tượng và pháp khí

Ban đầu ngài là thân nam tử, những sau khi đi qua nhiều kiếp để phổ độ chúng sanh với nhiều thân phận, nay đức Phổ Hiền không phân biệt nam nữ nữa. Phổ Hiền bồ tát thường xuất hiện với vương miện lấp lánh và trang phục gắn rất nhiều châu báu. Ngài cưỡi voi trắng có 6 ngà tượng trưng cho chiến thắng 5 giác quan của con người bao gồm: vị giác, thính giác, xúc giác, thị giác, khứu giác và ý niệm. Biểu tượng của Bồ tát Phổ Hiền là ngọc như ý, hoa sen, có đôi khi là trang sách ghi thần chú của ngài.

Pháp khí của Phổ Hiền bồ tát là viên ngọc ngài thường cầm trên tay trái. Trong một số hình ảnh thì có thể ngài sẽ cầm hoa sen bằng tay phải và trong hoa sen là viên bảo ngọc đó. Đôi khi, một trong hai bàn tay của ngài sẽ bắt ấn giáo hóa, có nghĩa là ngón cái và ngón trỏ chạm nhau thành hình tam giác.

Thập đại hạnh nguyện của Phổ Hiền bồ tát

Thập đại hạnh nguyện của Phổ Hiền bồ tát

 

Mười thập đại hạnh nguyện của Phổ Hiền bồ tát

Nếu như Đức Văn Thù Sư Lợi đại diện cho ý thức lý trí và sự hiểu biết cao thâm và thì Đại Hạnh Phổ Hiền bồ tát đại diện cho tấm lòng từ bi và những chân lý cuộc đời. Dựa vào “Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm” thì mười đại nguyện của Ngài gồm có:

  1. Lễ Kính Chư Phật
  2. Xưng Tán Như Lai
  3. Quảng Tu Cúng Dường
  4. Sám Hối Nghiệp Chướng
  5. Tùy Hỷ Công Đức
  6. Thỉnh Chuyển Pháp Luân
  7. Thỉnh Phật Trụ Thế
  8. Thường Tùy Phật Học
  9. Hằng Thuận Chúng Sanh
  10. Phổ Giai Hồi Hướng

Phân biệt đức Phổ Hiền và Văn Thù Bồ tát

Phân biệt đức Phổ Hiền và Văn Thù Bồ tát

 

Bồ tát Văn Thù cưỡi sư tử xanh ở bên trái và Bồ tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng ở bên phải.

Vì Phổ Hiền bồ tát và Văn Thù bồ tát luôn là hai vị thị giả xuất hiện và thường được thờ chung với Phật tổ Như Lai, vây nên có rất nhiều người nhầm lẫn giữa hai vị bồ tát này. Tuy vậy, cả hai vị đều giữ một vai trò khác nhau trong Phật giáo Đại Thừa, và họ cũng có những điểm khác nhau kể từ ngoại hình cho đến ý nghĩa khi thờ cúng.

Vai trò khác nhau của hai vị bồ tát

Cả hai vị bồ tát đều mang những vai trò khác nhau, bù đắp cho nhau tượng trưng cho cách hành xử và lý luận của Phật gia. Chính vì thế mỗi vị bồ tát đều thường xuất hiện hai bên trái phải của Phật tổ Như Lai. Như đã nhắc đến rất nhiều lần trước đó, Phổ Hiền bồ tát tượng trưng cho chân lý và sự từ bi, còn Văn Thù bồ tát tượng trưng cho trí tuệ. Phổ Hiền tượng trưng cho hạnh, còn Văn Thù tượng trưng cho giải. Điều này biểu tượng cho việc đức Phật luôn dùng lý trí để thâm đạt chân lý, đồng thời dùng lòng từ bi cùng với trí tuệ thông thái của mình để nhìn thấu chân lý thế gian.

Khác nhau về hình tướng

Khác với Phổ Hiền bồ tát được người đời miêu tả luôn khoác trên mình trang phục lộng lẫy cùng châu báu thì Văn Thù là một vị bồ tát có dáng dấp trẻ trung. Khi xuất hiện, ngài luôn trong tư thế ngồi kiết già trên chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng của ngài là lưỡi gươm bốc lửa được dương cao lên khỏi đầu bằng tay phải. Điều này mang ý nghĩa rằng lưỡi gươm vàng này sẽ chặt đứt tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền não. Những thứ luôn khiến con người lâm vào những khổ đau và bất hạnh bất tận khi luân hồi. Giúp chúng sanh tiếp nhận trí tuệ viên mãn.

Còn tay trái của đức Văn Thù Sư Lợi cầm giữ cuốn sách kinh Bát Nhã. Cuốn kinh này luôn được ngài nâng niu cẩn thận và hướng nó vào tim. Điều này tượng trưng cho sự giác ngộ thực sự từ tâm. Đôi khi trong một số hình ảnh khác, tay trái của ngài có thể cầm hoa sen xanh biểu thị cho sự sạch sẽ tinh khiết, trí tuệ luôn minh mẫn và sáng tỏ.

Chiếc giáp nhẫn nhục mà Văn Thù bồ tát luôn mang trên người là thứ vô cùng quan trọng bảo vệ ngài khỏi những công kích thị phi của cuộc đời. Nó là chiếc giáp che chở cho tấm lòng từ bi của ngài để những hận thù không bao giờ xâm phạm được. Ngài không bao giờ rời chiếc giáp này bởi nếu thiếu nó thì tâm bồ đề của đức Phật sẽ khó để soi sáng chúng sanh.

Sư tử xanh là linh vật cưỡi của ngài, nó biểu trưng cho sự mạnh mẽ và quyền lực của trí tuệ dung thông. Giống như sư tử là chúa sơn lâm, trí tuệ có năng lực thống trị giống như khả năng của sư tử. Nhưng không có nghĩa là ngài sẽ lạm dụng nó vì điều xấu, mà ngài cũng như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ dùng trí tuệ thông thái của mình cũng với tâm bồ đề chặt đứt mọi tham vọng mơ tưởng, lý trí để tránh xa vô minh, lạc lối. 

Hy vọng với những thôn tin bài viết cung cấp quý độc giả đã hiểu hơn về Đức Phật Phổ Hiền Bồ Tát. Nếu quý bạn đang cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ các công trình kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với Acc Home các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ giúp bạn có những không gian thờ tự hoàn hảo nhất.

Nam mô a di đà phật

Đức Phật A Di Đà là ai?

Chúng ta hay nghe mọi người chỉ gọi chung là Đức Phật nhưng không phải chỉ có một người. Và hôm nay sẽ là một bài viết nói về Đức Phật A Di Đà là một trong những vị Phật được các phật tử yêu mến và tôn kính. Câu nói “Nam mô A Di Đà Phật” là một trong những minh chứng. Mời quý bạn đọc hãy cùng Nhà Thờ Họ tìm hiểu về Người và ý nghĩa của câu niệm trên.

Phật A Di Đà là ai?

Phật A Di Đà là ai?

Phật A Di Đà

Theo như kinh sách Đại A Di Đà, thì từ thời xa xưa có một vua trong một vương quốc sau khi nghe lời chỉ giáo của một vị Phật liền bỏ đi ngôi vị của mình mà xuất gia theo Phật tu hành. Không những chỉ dừng ở đó ông còn nổi tiếng trong sử sách Phật Pháp đã ghi lại đó là 48 lời nguyện. Trong những lời nguyện đó thì có đại nguyện mang ý nghĩa sau khi ông tu tâm thành Phật, sẽ tìm ra một thế giới và biến nó thành một vương quốc của sự an tĩnh. Ông sẽ là người hướng dẫn cho những nhà tu hành và chúng sinh đến được nơi này. Sau nay ông đã thành công hoàn thành các lời nguyện của mình và trở thành Phật A Di Đà. Thế giới mà người mong muốn trong đại nguyện đã được gọi với cái tên là Tây phương cực lạc.

Tất cả các vị Phật khác thường có những phẩm chất gần như là giống nhau, bên cạnh đó thì vẫn có những điểm khác biệt. Phật A Di Đà thường được ví von là ánh sáng của chiều tà, rực rỡ, lan tỏa đi khắp nơi nhưng đó không phải ánh sáng thiêu đốt. Ở Đông Á thì lại liên kết đó là ánh sáng của trăng, thể hiện được vầng hào quang của Ngài như những đêm trăng rằm. Sự so sánh trên về Ngài ở trên cũng nói lên được bản sắc của người Đông Á, nó không làm mất đi sự uy nghiêm hay gây hiểu lầm. Mà điều này giúp cho hình ảnh của Người được lan tỏa hơn, không chỉ dừng lại ở âm thanh và lời nói của Ngài trong sử sách. Người đã cứu rỗi chúng sinh nên đối với cách xưng hô tên nên gọi là Ngài, hay nói đứng hơn tân nên cầu nguyện với Ngài với câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Đối với chúng sinh Đức A Di Đà vẫn là hình mẫu của sự mạnh mẽ khi đã mang lạnh sức mạnh của lời nguyện và giúp đỡ.

Đức Phật A Di Đà thường được thể hiện qua thủ ấn Mudra quan trọng của Phật Pháp, là để nói đến vòng luân hồi 500 kiếp Dhyana Mudra đến khi được giác ngộ. Ngoài ra cũng có những thủ ấn khác thể hiện như tư thế đứng với ý nghĩa của sự thủ thế khỏi hiểm nguy. Ngoài ra ở vài quốc gia cũng đã xây dựng tượng phật với lòng thành kính như tượng Phật A Di Đà ngồi ở Indonesia vào khoảng những năm 1863-1866. Hay là ở Nhật với tượng Phật khổng lồ được làm bằng Đồng tại tỉnh Kanagawa. Tại bảo tàng Quốc gia Tokyo còn có cả tượng Phật thời Kamakura ở những thế kỷ 12-13 được điêu khắc từ gỗ với chất liệu vàng lá và đặc biệt nhất có lẽ là đôi mắt pha lê.

 

Tượng Phật A Di Đà ở Nhật

Tượng Phật A Di Đà ở Nhật

Mặc dù những thông tin về Đức Phật chỉ có thể thông qua sử sách kinh thánh, người đời ngày nay cũng chưa thấy được gương mặt thật. Tất cả chỉ có thể tượng hình qua những bức tượng được điêu khắc tỉ mỉ với lòng thành kính, cầu khấn Người ban ơn lành. Điều đó cũng thể hiện lòng tin dành cho Ngài vẫn tiếp tục đến ngày nay. Những niềm tin đó được thể hiện qua những hành động lẫn cả việc thờ cúng. Ngoài vị Phật này mà còn cả 2 vị bồ tát Đại Thế Chí và đặc biệt đó là Quan Thế Âm, được gắn liền với Người không chỉ qua kinh sách mà có cả phim đã thể hiện qua. Hai bồ tát là người giúp đỡ loài người và luôn đi theo Đức Phật. Vì điều mang theo ý nghĩa linh thiêng và xuất thân là người phàm nên đôi lúc những bối cảnh đó làm cho chúng ta khó phân biệt. Nhưng đây vẫn là vị Phật được tôn thờ nhất Phật Pháp. Tên người luôn được hiểu là vầng hào quang của trí tuệ chiếu khắp thế giới. Đặc biệt phải lưu ý là Ngài xuất hiện trước Đức Thích Ca từ rất lâu trong quá khứ.

Vậy sẽ có những Tượng Phật của các vị khác làm sao ta có thể phân biệt được đâu là Phật A Di Đà? Đáp án sẽ là có thể phân biệt qua những đặc điểm như sau: Trên đầu của Ngài se có những cụm tóc xoắn lại trên đỉnh đầu, mắt thì nhìn xuống chúng sanh, miệng thì với nụ cười yêu thương và đặc biệt khoác trên người áo cà sa màu đỏ. Tượng Phật sẽ được khắc với những tư thế khác nhau như có thể là đứng hay ngồi, tay phải sẽ đưa sang ngang vai hoặc chỉ lên, tay trái thì đưa ngang bụng hoặc chỉ xuống dưới, hay ngón trỏ và ngón cái chạm nhau như hành động ngồi thiền.

Sơ lược lịch sử về Phật A Di Đà

Sơ lược lịch sử về Phật A Di Đà

 

Vô lượng thọ kinh là sách kinh đã nhắc đến Phật A Di Đà đầu tiên. Nhưng theo sách kinh đã ghi lại cũng như các bằng chứng khảo cổ cho thấy những ghi chép về Ngài vào khoảng thế kỷ I TCN. Cho nên từ đó cũng có những tranh cãi về niềm tin về nguồn gốc này có đúng hay sai.

Theo như giải thích về nguồn gốc của lòng tin dành cho Đức Phật ở bách khoa toàn thư của Việt Nam ta cho thấy được những câu chuyện truyền đực tịn về A Di Đà là một sản phẩm của một người học trò trong Phật Pháp của thế kỉ I TCN, và cũng có không có thông tin cơ sở nào khác chúng minh sự tồn tại hay nói về Ngài. Vậy có đúng là vị Phật A Di Đà chỉ là một sản phẩm do người khác viết? Điều này vẫn là ẩn số.

Nhưng những thông tin này cũng chỉ lập luận dựa trên những tìm hiểu qua bằng chứng khảo cổ học. Cũng đã có những học trò vẫn theo sử sách ghi chép cho rằng Đức Phật A Di Đà là người sớm nhất và đã có các văn bản liên quan được ghi chép lại và theo như ghi chép có lẽ là vào thế kỷ một trước công nguyên ở vùng nam Ấn Độ. Cuốn sổ ghi chép nhưng kinh thánh của Ngài đã được người ở muôn nơi dịch lại, điển hình là Trung Quốc. Bản dịch đầu tiên cũng là dịch sang tiếng Trung vào khoảng những năm 178 đến 189 của thế kỷ thứ 2.

Nguồn gốc giáo lý về Phật A Di Đà

Nguồn gốc giáo lý về Phật A Di Đà

Cõi Tây phương cực lạc

Như những gì ghi chép trong nguồn gốc lịch sử, cũng như những yếu tổ khác nên nguồn gốc về Đức Phật A Di Đà vẫn có những tranh cãi không chỉ bên trong mà lẫn bên ngoài. Cho nên việc xem xét về mặt giáo lý sẽ chỉ hướng theo những sử sách ghi về giáo lý quanh Người, chứ sẽ không xem xét về cả mặt nguồn gốc lịch sử để có những yếu tố khách quan hơn. Những nhà tu hành luôn cho rằng việc niệm Phật A Di Đà đây sẽ là cách nhanh nhất để ta sớm được giải thoát khỏi khổ đau và ai cũng có thể làm được điều đó. Còn theo như nguyên bản của giáo lý Phật Pháp thì cho rằng việc thiền định sẽ giúp ta, Phật sẽ không thể giúp đỡ ai, chỉ có ta mới là người nên tự giúp mình. Cũng như những Vị Phật khác chẳng hạn như Đức Phật Thích Ca cũng là người tự mình giải thoát bản thân tiến tới nơi gọi là Niết Bàn. Vì những ý nghĩa về Phật Pháp sẽ dễ đi vào những ý nghĩa gây hiểu lầm hay không hiểu rõ những hàm ý, dẫn đền đức tin sẽ dễ bị lung lay do có quá nhiều ý nghĩa trái ngược nhau.

Trong những câu Kinh, chính Phật Thích Ca (là vị Phật được nhắc nhiều trong thời gian sau này) đã giới thiệu và nói về Phật A Di Đà với lòng ca ngợi vô bờ bến trong Vô lượng thọ kinh. Theo lời dạy của Phật Thích Ca để được giải thoát hoàn toàn khỏi khổ đau thì có rất nhiều con được khác nhau để đạt được, không hẳn chỉ có con đường tu hành mới có thể thành một vị Phật. Tùy vào những hoàn cảnh của mỗi người sẽ có thể lựa chọn khác nhau để có thể trở thành Phật, dập tắt được ngọn lửa luân hồi.

Danh hiệu của A Di Đà là Pháp Tạng. Nhưng nghĩa của danh xưng A Di Đà lại có nghĩa sâu bên trong. Ngoài việc có thể phân biệt được những Vị Phật khác trong giáo lý Phật Pháp, mà còn có ý nghĩa nhắc ta hãy niệm kinh với thân phận yếu hèn của mình, dựa vào niềm tin của Phật để vượt qua mọi cám dỗ ở đời, vượt qua tội lỗi người phàm, khó khăn và yếu đuối của thân xác để có thể giữ vững tâm cho đến lúc qua đời. Chính Phật sẽ chờ đợi và đón bạn vào cõi Tây cực lạc mà người đã xây dựng cho những người giác ngộ.

Khác với ta sẽ nghĩ thì những người tin vào Tịnh độ (cõi thanh tịnh của Phật A Di Đà ở cực lạc) chiếm nhiều nhất ở các nước Đông Á. Còn đối với những học giả tri thức của Phật Pháp trên toàn thế giới thì lại có rằng chính họ sẽ tu hành thành công và chẳng cần một vị Phật nào giúp ta được, điều này lại có nhiều người tin vào hơn. Những nhà học giả đó có vẻ sẽ có những tìm hiểu về nguồn gốc về Phật giáo trong sử sách ghi theo một cách khoa học và có chứng kiến hơn.

Nam mô A Di Đà Phật có nghĩa gì trong giáo lý Phật giáo?

Nếu bạn không phải là người thuộc Phật giáo thì chắc bạn cũng nghe đến câu “ Nam mô A Di Đà Phật”. Vậy có những lúc bạn có thắc mắc tại sao lại có câu nói này, nó có ý nghĩa gì hay không? Thì ta nên biết rằng đây là câu niệm rất quen thuộc, được sử dụng rộng rãi, và được dùng là câu chào mỗi khi các vị Phật tử gặp nhau. Nhưng không phải lúc nào cũng sử dụng và bừa bãi để mất đi ý nghĩ linh thiêng bên trong.

 

Ý nghĩa “Nam mô A Di Đà Phật”

Ý nghĩa “Nam mô A Di Đà Phật”

“Nam mô” trong câu niệm cũng được định nghĩa là phụng thờ ngoài ra có nghĩa khác là quy mệnh và cũng còn những nghĩa khác nữa. “A Di Đà” thì ta cũng biết đây chính là tên gọi của Vị Phật sau khi được giác ngộ có từ xa xưa, được tôn thờ nhiều nhất trong Phật Pháp.Trong đó “A” có nghĩa là sức khỏe vô hạn, “Di” có nghĩa là trí tuệ vô song, “Đà” có nghĩa là trường thọ. Cuối cùng đó chính là “Phật” là Người có bao gồm những hàm ý của danh hiệu “A Di Đà”, là đấng mà muôn người hướng bản thân mình đến, đích đến giác ngộ. Như vậy theo hàm nghĩa nôm na lại thì câu niệm này có thể hiểu đó sự tôn kính dành cho Người cũng như những đấng đã giác ngộ, với mong ước bên thân sẽ được người phù trợ để được như Người.

Từ quá khứ đến hiện tại, Chúng sinh cũng được dạy bảo hãy niệm danh hiệu của Người để được xóa đi những tội nặng của mình. Theo kinh sách đã ghi chép, những ai tin và thành tâm niệm câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật” sẽ được ngài đón tiếp linh hồn ta vào thế giới Tây phương cực lạc mà ta ao ước. Câu niệm này hiện nay vẫn được người đời dùng để tỏ ra thành kính dành cho vị Phật này, để cùng nhau hướng mình đến sự giác ngộ và sống đời sống giáo lý Người đã dạy.

Bạn đang cần tư vấn thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình thờ cúng tâm linh tại nhà có thể liên hệ với Acc Home theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ tư vấn giúp bạn có được không gian chuẩn tâm linh nhất.

tứ diệu đế

Tứ diệu đế là gì?

Nếu bạn được lớn lên trong gia đình Phật giáo thì chắc chắn bạn phải biết đến Tứ diệu đế, đây chính là cốt lõi của giáo lý. Trong vòng 49 năm trời, Đức Phật đã giảng dạy rằng Tứ thánh đế cho đến khi thêm định nghĩa Niết Bàn nhưng ngọn lửa đi đầu này vẫn được nhắc nhở phải giữ lấy để giải thoát bản thân khỏi vòng luân hồi.

Nếu chỉ vài dòng vắn tắt không thể nói hết được hàm ý bên trong. Vậy thế nào là tứ diệu đế, có ý nghĩa gì?  Mọi người hãy cùng thietkenhathoho.com thông qua bài viết này tìm hiểu thêm để hiểu lời Đức Phật.

Định nghĩa về tứ diệu đế

Định nghĩa về tứ diệu đế

Tứ diệu đế là gì?

Nếu nói đến Niết bàn là đích đến cuối cùng của nhà tu hành thì Tứ diệu đế lại liên quan đến sức sống của những lời dạy Đức Phật để lại. Đây được coi là tủy sống của giáo lý Phật Pháp, tất cả những điều giảng dạy đến này đều phải dựa vào để mở rộng được tư tưởng để truyền dạy cho thế hệ sau này.

Nếu diễn giải theo nghĩa của tứ diệu đế sẽ là 4 chân lý diệu kỳ. Không chỉ gọi bằng cái tên đó, người ta còn thường gọi là “Tứ thánh đế” và ngoài ra còn gọi với cái tên ngắn gọn là “Tứ đế”. Bốn điều chân lý đó chính là những sự thật trong lúc giác ngộ bản thân Đức Phật đã tự mình tìm ra được, từ đó ông giảng dạy cho học trò của mình.

Vì khái niệm này dựa trên cuộc đời đi tìm sự giác ngộ của Ngài, quá trình đó rất gian nan không được như ngày nay. Đó là sự quyết tâm sâu sắc của ông qua xuyêt suốt 6 năm học hỏi và tận 5 năm để tu hành đạt được ngưỡng tu hành. Những bài học đúc kết đó là sự tu luyện bản thân gian khó, nhưng nó lại là bài thuốc hiệu nghiệm đã giải quyết được những điều mà loài người ta luôn gặp phải trong thực tế. Đó như là bảo tàng của Phật Pháp, là món quà vô giá dành cho xã hội bây giờ và cho đến ngàn năm này, vì vậy ai cũng tôn kính ông đến nay.

Những định nghĩa về tứ diệu đế

Những định nghĩa về tứ diệu đế

 

Những định nghĩa về Phật giáo luôn luôn phải tự bản thân tìm hiểu chứ không thể giải nghĩa cách ngắn gọn xúc tích, đó là một quá trình rất dài. Bởi vậy chính Đức Phật đã nói: “Nếu ta còn không hiểu được tứ diệu đế thì chẳng có cách nào ta có thể giải thoát khỏi vòng sinh tử bao quanh luân hồi, không hiểu được tứ đế thì chẳng thể nào tìm được con đường đúng đắn thoát khỏi sự khổ tâm, cái nghiệp của ngọn lửa đó”. Bởi vì như thế để đạt được chân đường Niết Bàn phải đi tìm xương sống của Phật là Tứ thánh đế rồi mới dần dần đạt được điều ta hướng đến.

Tứ đế nói là sự thật, là chân lý của cuộc sống khổ đau nơi trần thế của con người. Dạy ta biết đâu là nguyên nhân, làm sao để chấm dứt chuỗi đau khổ và các phương pháp chỉ dạy thực tiễn để ta dập đi tất cả đau khổ. Những bài giảng dạy giáo lý này không chỉ có lý thuyết khô khan mà còn có những bài thực hành thực tế để ta vừa nghe và hành động được. Cách mà Ngài thuyết giảng về tứ diệu đế vô cùng tinh tế và kỹ càng. Người chỉ cho ta biết được cuộc sống trên cõi trần này đau khổ đến mức nào. Những chân lý đó là những điều đang diễn ra trong cuộc sống thực tại vô cùng rõ ràng nhưng chỉ là ta chưa nhìn thấy, đó là những điều dễ hiểu vì ta đã trải qua. Đức Phật cũng đã nói những sự thật đó không phải khiến ta trở nên bi thương, tiêu cực hay bế tắc như ta vẫn đang suy nghĩ về cuộc sống của chính mình. Nhưng chính Ngài đã bước đi trên con đường đó và đã giảng dạy về những khổ đau đó và chính Ngài là mẫu gương đã giác ngộ, đạt được ngưỡng hạnh phúc, cái đích đến của tu hành. Đó là niềm vui, lạc quan và tích cực, đây cũng chính là ý nghĩa sâu bên trong mà Đức Phật muốn dạy ta thông qua tứ diệu đế.

Tại sao lại có tứ diệu đế?

Tứ diệu đế như đã được biết đến là sự đúc kết khi tiến đến sự giác ngộ của Người. Sau khi Đức Phật ngày đêm tịnh tâm, thiền dưới cội bồ đề thì ông đã chia sẻ với anh em nhà Kiều Trần Như về những đúc kết mà ông đã thành công giác ngộ được. Trong lúc đó ông cũng đã giảng dạy về Tứ thánh đế. Từ đó trở thành chân gốc của giáo lý Phật giáo. Những chân lý của thế gian này được ông tỏ bày rất chi tiết, khi tâm an tịnh thì sẽ dập tắt được ngọn lửa luân hồi đầy đau khổ, bi thương. Đó là điều muốn được giác ngộ thì đây là cách thức cốt lõi để phát triển đi tìm những điều sâu thẳm bên trong mỗi người.

Với lòng yêu thương, từ bi và muốn đưa đem những gì mình đã đạt được đem đi giảng dạy muôn nơi. Bởi vì Ngài không muốn chỉ có mình, mà ai ai cũng có thể giải thoát bằng chính bản thân mình. Ta chỉ có thể giúp đỡ nhưng sẽ không có quyền phán xét, lựa chọn cuộc đời của họ, nên Đức Phật cũng muốn mình là người hướng dẫn để sự giác ngộ trong tâm sớm tỉnh thức. Nhờ sự giúp đỡ 5 anh em nên chính họ cũng đã cố gắng và đã giải thoát được bản thân. Từ đó mà Tăng đoàn đã được mở ra đi giảng dạy muôn nơi, từ đời này sang đời khác chỉ giáo nhau mà phát triển rộng lớn đến tận nay. Cuối cùng nhờ có Đức Phật giác ngộ, truyền dạy mà Phật giáo đi muôn nơi mang lại sự hạnh phúc của sự thật cho loài người.

Ý nghĩa của tứ diệu đế?

Ý nghĩa của tứ diệu đế?

Ý nghĩa Tứ Thánh Đế

Như khái niệm đã nói tứ diệu đế là cốt lõi của giáo lý truyền dạy của Đức Phật, nguyên nhân để có được cuốn sách mở này đó chính là hạnh phúc. Chính Ngài đã trải qua tất cả như chúng ta hiện nay nhưng chính nhờ sự chuyên tâm tu luyện, thiền định mà tâm của Người đã được giác ngộ. Khổ đau là điều ai cũng muốn tránh, không muốn mình vùi dập trong sự tiêu cực của bản thân. Nhưng nó lại là nghiệp báo luân hồi mà ta phải mang và chỉ có hạnh phúc của giác ngộ mới giải thoát ta. Nguyện vọng duy nhất của bao nhiêu người gần ngay trước mắt nhưng chẳng thể chạm được. Tứ thánh đế được sinh ra là để nhân gian hiểu rõ được khổ, nguyên nhân tại sao, nó có chấm dứt không, và con đường chông gai ta phải đi để bản thân được chấm dứt. Tứ đế như là liều thuốc thúc đẩy ta ngày càng nỗ lực để đạt điều mà ta hằng muốn.

Đúng là hạnh phúc là điều Tứ thánh đế mang lại cho ta khi ta nỗ lực toàn tâm, nhưng ta phải biết rằng chính ta phải là người đi tìm điều chân lý đó. Đó chính là liều thuốc quý báu này đem lại. Đây chỉ là nền tảng vững chắc cho bạn tiến bước lên thêm, bạn phải xây cho thật vững chắc vì phía trước con đường đó còn xa và đầy chông gai.

Vậy tứ chân lý của tứ diệu đế là gì? Chúng ta hãy tìm hiểu để biết được tại sao đây lại là liều thuốc bổ.

Chân lý về khổ

Còn hay được gọi là khổ đế. Nói về đau khổ của trần gian thì theo Phật Pháp thường chia thành 3 loại đau khổ đó là tuổi già, bệnh tật và cái chết. Đây cũng là 3 cảnh tượng mà Đức Phật thấy đầu tiên trong cuộc hành trình của Người.Nhưng theo Ngài thì khổ đau chưa thể nào dừng ở đó mà còn phải được đào sâu hơn nữa. Bởi vì chúng ta đều biết, cuộc đời mỗi người đều rất nhiều màu, không chỉ có màu hồng mà còn màu cam của cam chịu, màu trắng của sự trong sạch, màu đen của u tối, …Cuộc sống của mỗi người thường sẽ không được hoàn hảo hoàn toàn được vẫn còn những mặt tối bên trong và chẳng thể nào đi đúng đường như ta mong muốn.

Con người từ khi được bước chân vào cõi trần này đã phải bị những ham muốn, dục vọng bao quanh ta. Nhưng ta sẽ luôn biết rằng bản thân mình khi đã thỏa mãn những dục vọng đó ta lại muốn hơn, và đó chỉ mang tính tạm thời. Niềm vui mà ta có trong cuộc sống mà ta có không thể giúp ta cười mãi trong 24 giờ rồi nó cũng sẽ tan. Chúng ta rồi sẽ trở nên ủ rũ, buồn bã vì cuộc sống ta mong ước luôn là màu hồng nhưng chẳng ai có thể hành động theo ý ta muốn, ta sẽ thấy rằng cuộc sống này chẳng dành cho mình.

Ngay cả khi chẳng cần chúng ta bệnh tật, gặp muộn phiền trong cuộc sống mà đó chỉ là những điều đơn giản như ta không đạt được những điều mình mong muốn. Những điều mình lên kế hoạch cho cuộc sống mình không hoàn thành. Rồi dần dần chồng chất những điều ta không hài lòng trở thành điều buồn phiền nơi thâm tâm. Bởi vậy, ta phải hiểu rằng cuộc sống này chỉ là vô thường. Chính Đức Phật cũng đã dạy rằng trước khi ta nghĩ và tìm hiểu đến sự tồn tại cũng như cái chết thì ta phải hiểu chính bản thân mình trước.

Nếu bạn khi đọc bài viết này cảm thấy cuộc sống mình đang có chút bi quan hay tiêu cực. Thì bạn hãy xem đây là điều may mắn của bạn rằng chính Đức Phật đã nói đừng nên kết thúc bằng sự đau khổ. Thay vào đó bạn hãy tìm cách nói ra hết, hãy tìm những cách mình có thể làm cùng và làm như nào để kết thúc của sự hạnh phúc cùng với Ngài.

Chân lý về nguyên nhân khổ

Rắn đại diện cho sự thù hận

 

Rắn đại diện cho sự thù hận

Chắc hẳn bạn đã nghe câu nói: “Thất bại là mẹ thành công”. Đúng vậy ai mà chẳng gặp những thất bại mà ta chẳng hề mong muốn điều đó xảy ra. Những điều rắc rối sẽ luôn xảy ra với rất nhiều những lý do như bệnh tật, công việc không được suôn sẻ, tình yêu không được may mắn,… Nhưng mà theo giáo lý của Phật Pháp thì tập đế nó còn sâu xa hơn với những điều chúng ta suy nghĩ về những thất bại của mình trên con đường thành công.

Nguồn gốc của khổ đó chính là dục vọng của con người. Và đã được Ngài tìm ra, đó là 3 gốc rễ của sự ác và được diễn giải dễ hiểu như sau: 

  • Lòng tham, lòng thèm muốn đại diện là con gà trống.
  • Sự ngu muội, mơ tưởng đại diện là con heo.
  • Sự ganh ghét, sân si, thù hận đại diện là con rắn.

Hạnh phúc là thứ rất nhiều người đi tìm kiếm ở thế giới hiện tại. Họ cứ tìm cứ tìm rồi lại thấy vọng. Bởi vì sự thành công đối với họ như vậy vẫn chưa đủ, chúng ta vẫn cứ tiếp tục và không bao giờ hài lòng. Sự khao khát của bản thân đi tìm thứ ta nghĩ đã là hạnh phúc nên dừng lại. Con đường đúng đắn, mang lại cảm giác an toàn cho ta nhất đó là chính bản thân. Thứ gắn bó với ta đó chính là cơ thế, lý tưởng, quan điểm về tất cả đó chính là ta. Nhúng vinh hoa, phú quý đời này chỉ qua là “cái tôi” ta muốn tự đạt được, ta tự đặt mục tiêu cho chính mình. Mọi áp lực trong cuộc sống chỉ ta hiểu ta và chính ta muốn mình phá bỏ hay tiếp tục khổ đau là lựa chọn của chính mình chọn.

Nếu bạn không thành công, chẳng vẻ vang gì, những gì ta xây dựng bị phá tan, bị từ bỏ,… tất cả sẽ khiến bạn thất vọng, chán nản, hết sức sống rồi dần dần những tiêu cực tích góp lại có phải sẽ có những hành động tiêu cực đi không? Lúc đó ta đã đi vào con đường u tối và những điều tồi tệ sẽ xảy ra, tâm hồn ta chỉ còn thù hận của cuộc sống.

Từ đó ta cũng sẽ hiểu rằng sự vô thường lại có mối quan hệ chặt chẽ với luật nhân quả.

Chân lý về khả năng chấm dứt khổ.

Muốn dập đi ngọn lửa nghiệp của sự dục vọng, đau khổ thì ta phải giải thoát bản thân khỏi chấp niệm. Sự thật thứ 3 của Tứ thánh đế sẽ nói ta biết khả năng ta sẽ chấm dứt được sẽ như nào. Như lời mà Phật dạy về Tứ đế sẽ có lúc ta sẽ nghe như người bác sĩ đang chuẩn đoán bệnh, kê đơn thuốc cho ta. Đầu tiên Ngài cho ta biết bệnh tình ta là gì, thứ hai tại sao ta lại mắc căn bệnh đó và ở chân lý thứ 3 người sẽ nói cho ta biết niềm tin cho việc chữa trị sẽ thành công như nào.

Niềm tin đó người luôn dạy ta rằng dù có mắc căn bệnh nan y quái ác ta cũng phải thật siêng năng bằng cách đừng suy nghĩ về tham vọng nữa. Hãy siêng năng tập luyện bản thân, bồi bổ những điều hạnh phúc bằng cách ta hãy giác ngộ khỏi vòng luân hồi. Vì khi ta chạm được đó sẽ là ngưỡng Niết Bàn.

Hãy dập tắt ngọn lửa tham vọng, ảo tưởng, dục vọng ở đời. Vì ta tắt được ngón nên luân hồi ta sẽ không phải khổ đau nữa. Chính Niết Bàn là sự lý tưởng, cách duy nhất để điều trị căn bệnh ta. Những niềm vui sâu trong ta sẽ được mở ra, những điều đau buồn ở cõi trần này sẽ chẳng còn khi ta từ bỏ nó. 

Chân lý về con đường giải thoát khổ

Chân lý về con đường giải thoát khổ

Tứ đế là liều thuốc hữu hiệu

Chúng ta đã được tia hy vọng sẽ được chữa trị thì đây là toa thuốc chữa trị cho bạn. Chân lý đạo đế là chân lý hoàn hảo để giải thoát. Và toa thuốc này sẽ được gọi với cái tên đó là Bát Chánh đạo. Ngoài việc được gọi như vậy còn có cái tên khác là Trung Đạo. Đó là do Ngài đã tìm ra lúc giác ngộ, nó giúp ta tránh được sự dục vọng của khổ đau. Bát có nghĩa là tám ý chỉ tám giai đoạn ta phải làm theo nhưng không cần làm theo một trình tự, vì nó chởi tương trợ lẫn nhau. Ta vẫn có thể tóm gọn lại thành 3 nhóm đó là Trí tuệ (trí thông minh, hiểu biết, sự thật), hành vi đạo đức (hành động, lời nói , cử chỉ) và cuối cùng đó là Thiền định (tập trung, đúng cách). 

Đạo đế dạy ta biết đâu là điều thiện đâu là điều ác khiến ta sáng tỏ được đôi mắt người phàm của ta. Nhân thức được cuộc sống này vô thường. Tránh bản thân khỏi những suy nghĩ của du vọng, những hành động như: giết người, hãm hại, đánh người,… Giữ cho ngôn từ ta nói ra đều là sự thiện, ta sẽ không còn như thù hận thì sẽ làm những điều bác ái, yêu thương con người. Vì Phật giáo cũng như những tôn giáo khác đều dạy con người ta rằng hãy yêu thương nhau. Bát Chánh đạo là kim chỉ nam để giác ngộ, giống như chiếc bè khi đã đến được bên kia bờ sông sẽ không cần bè để quay trở lại.

Nhờ Đức Phật mà ta đã có một nền tảng vững chắc đó là Tứ đế. Nơi mà con người sẽ học hỏi được rất nhiều để có thể vững tâm bước qua con đường phía trước ta sẽ không bao giờ quay đầu lại đó là chấm dứt vòng luân hồi. Đây cũng sẽ sự thúc đẩy để ta vững tâm tiến lên để tìm thấy nơi mà ta thật sự thuộc về. Đây quả là một bài thuốc trị bệnh hiệu quả cho những tâm hồn đang đau khổ cuộc sống ở đời này.

Mỗi một định nghĩa, bài học giáo lý đều được giải thích một cách cụ thể để hiểu hết được hàm ý bên trong. Vì tất cả những điều đó là chân lý, lý do mà ta phải tìm chân lý, khả năng ta có thể thay đổi và cuối cùng đó chính là cách ta nên sống theo để đạt được Niết Bàn. Những học trò của Người và cả người tu hành đều phải hướng bản thân mình theo như tứ diệu đế. Vì đây chính là cột sống của giáo lý mà Đức Phật đã đúc kết lại. Hãy nghe và tin Người vì chính người sẽ hướng ta đến cuộc sống bình an và hạnh phúc đích thực mãi bền vững mà ta cứ mãi tìm.

Hy vọng bài viết đã cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho quý độc giả. Nếu bạn cần thiết kế nhà thờ họ hoặc những công trình thờ tự, kiến trúc tâm linh có thể liên hệ với chúng tôi theo số điện thoại 0977. 703. 776 hoặc hòm thư điện tử thietkenhathohodep@gmail.com các kiến trúc sư của chúng tôi sẽ trực tiếp tư vấn giúp bạn sở hữu những không gian chuẩn tâm linh nhất.